Rủi ro đảm bảo : Phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bao như các điều khoản trong hồ sơ cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
Rủi ro nghiệp vụ : Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục : Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng được chia thành hai loại, rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro nội tại : Xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc nghành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn có của khách hàng vay vốn.
Rủi ro tập chung : Là trường hợp ngân hàng tập chung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho quá nhiều doanh nghiệp vay hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.5. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng mang tích tất yếu : Rủi ro tín dụng luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng. Chấp nhận rủi ro tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đánh giá cơ hội dựa trên mối quan hệ rủi ro. Lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu hợp lý và kiểm soát được cũng như nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.
Rủi ro mang tính gián tiếp : rủi ro tín dụng xảy ra sau khi ngân hàng giải ngân vốn vay và trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Do tình trạng thông tin mất cân xứng nên thông thường ngân hàng thường biết thông tin sau hoặc biết thông tin không chính xác về những khó khăn, thất bại của khách hàng. Do đó, thường có phương pháp ứng phó chậm trễ.
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp : Đặc điểm này thể hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng này cũng như diễn biến sự việc, hậu quả khi rủi ro sảy ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Kỹ thuật cây quyết định hồi quy trong phân tích và dự báo rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (HSB), chi nhánh Thái Nguyên - 1
- Kỹ thuật cây quyết định hồi quy trong phân tích và dự báo rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (HSB), chi nhánh Thái Nguyên - 2
- Chiến Lược Cơ Bản Để Xây Dựng Cây Quyết Định
- Một Số Cài Tiến Của Thuật Toán C4.5 So Với Thuật Toán Id3
- Phương Pháp Chuyên Gia Trong Xếp Hạng Tín Dụng
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
Qua các nghiên cứu cho thấy, thực tế quy mô của ngân hàng có tác động 2 chiều đến RRTD cũng như hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Hiện nay, các nghiên cứu đi theo 2 hướng. Thứ nhất, ngân hàng có quy mô lớn thường có nguy cơ rủi ro tín dụng cao hơn, hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng thấp hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Theo lý giải thông thường, đối với những ngân hàng có quy mô lớn, đối tượng khách hàng đều là những doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực khác nhau, vì vậy khi xảy ra biến động thị trường, các doanh nghiệp này dễ bị tổn thất nặng nề, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh từ đó xác suất không thực hiện được nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng là khá lớn. Bên cạnh đó, đối với đối tượng khách hàng này, tâm lý chung của các ngân hàng là đơn giản hóa các thủ tục tín dụng, vì vậy tạo ra lỗ hổng trong quá trình cấp tín dụng sẽ phát sinh RRTD.
Thứ hai, một số nhà nghiên cứu lại cho rằng, quy mô tín dụng ngân hàng có tác động ngược chiều đến RRTD, nghĩa là với những ngân hàng có quy mô lớn, có đầy đủ nguồn lực để xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro tốt hơn, do đó RRTD đối với các ngân hàng này là khá thấp mang lại hiệu quả quản trị RRTD cao.
1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.6.1. Nguyên nhân khách quan
Nhận diện được những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong công tác phòng ngừa quản trị rủi ro.
Nguyên nhân từ ngân hàng
Thứ nhất : Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp ; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai : Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dòi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dòi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba : Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rò tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư : Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nguyên nhân đến từ khách hàng
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề
kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai : Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Các nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất : Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường ; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai : Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba : Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn…, cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.
Tín dụng ngân hàng là một hoạt động kinh doanh, do đó nó chịu tác động trực tiếp của môi trường bên ngoài bao gồm : môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường xã hội, sự thay đổi của từng môi trường này cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Cụ thể như sau :
Môi trường kinh tế : Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đế RRTD chính là rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Trong khi đó hoạt động kinh doanh của khách hàng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố vĩ mô như : tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoạn, cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lệ thất nghiệp.
Môi trường pháp lý : Bao gồm các quy định, quy chuẩn các văn bản pháp luật do chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ ban ngành hoặc các tổ chức quốc tế có liên quan ban hành. Khi môi trường pháp lý thiếu rò ràng, công khai và minh bạch, thiếu thống nhất và còn chồng chéo mâu thuẫn sẽ làm ra tăng rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
Môi trường xã hội : Đây là môi trường quan trọng hình thành nên tập tục, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân. Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Nếu trình độ dân chí chưa cao, người dân thiếu hiểu biết thì rủi ro về mặt đạo đức sẽ rất dễ xảy ra, tình trạng lừa đảo, trốn nợ có nguy cơ gia tăng.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố khác như thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, trật tự - ổn định xã hội, chiến tranh.
1.2.6.2. Nguyên nhân chủ quan
Chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, quy trình tín dụng không nhất quán, lỏng lẻo. Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng của Ngân hàng, một khi chính sách tín dụng tập trung quá
nhiều vào mục tiêu lợi nhuân hoặc quy định không nhất quán thiếu rò ràng, thiếu thực tế thì sẽ đối mặt với RRTD cao.
Không chú trọng đến công tác thẩm định phân tích và thiết kế khoản vay: phân tích thông tin khách hàng và thẩm định khoản vay, đánh giá khách hàng và thiết kế phương án vay vốn không phù hợp, không có khả năng đưa ra đánh giá khách hàng không chặt chẽ, chưa hiểu phương án kinh doanh có thể đưa ra những quyết định cho vay sai lầm.
Sự yếu kém về năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngân hàng : đây là nguyên nhân mang tính chủ quan và khó lường nhất bởi liên quan đến yếu tố con người. Sự yếu kém về chất lượng đội ngũ cán bộ tin dụng gây ra rủi ro trong mọi khâu, từ khâu xét duyệt cho vay đến khâu kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay, cán bộ tín dụng non kém về trình độ năng lực nghiệp vụ thiếu kinh nhiệm nên không có khả năng xử lý… những trường hợp này nếu không được xử lý kịp thời sẽ làm cho RRTD của ngân hàng ngày càng gia tăng.
Ngoài ra nguyên nhân do cơ cấu tổ chức : khả năng nhận diện rủi ro, công cụ đánh giá rủi ro năng lực công nghệ của NHTM còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp gây bất lợi cho hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
1.2.7. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Đối với nền kinh tế : Hoạt động tín dụng ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và các cá nhân. Ngân hàng gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn, sự khủng hoảng từ hệ thống ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Làm cho nên kinh tế bị suy thoái, giá cả gia tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc và nền kinh tế khu vực và thế giới, do đó hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia gặp khó khăn cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới.
Đối với các doanh nghiệp kinh nghiệm và năng lực kinh doanh đang còn ờ trình độ thấp, thì hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Khi được vay vốn kinh doanh thì dự án này sẽ gặp nhiều khó khăn, khả năng xảy ra rủi ro là rất cao. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng sẽ rất lớn.
Nhân tố không lành mạnh từ phía khách hàng là việc khách hàng lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích, trốn tránh trách nhiệm uỷ quyền và bảo lãnh. Khi mà khách hàng lừa đảo họ lợi dụng các điểm yếu và kẽ hở của ngân hàng. Họ lập các phương án kinh doanh giả, cùng các giấy tở thế chấp giả mạo hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng một bộ hồ sơ. Đối với trường hợp bảo lãnh và uỷ quyền xảy ra chủ yếu đối với các công ty lớn. Một số công ty, công ty lớn đứng ra bảo lãnh uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của ngân hàng để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng vào hoạt động và kinh doanh. Tuy nhiên khi đơn vị chi nhánh không trả được nợ thì đơn vị bảo lãnh không chịu đứng ra thực hiện nghĩa vụ của mình.
Đối với ngân hàng : Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm ngân hàng mất cân đối trong công việc thu chi và giảm sút hệu quả kinh doanh. Khi gặp phải rủi ro tín dụng cao trong ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, và có thể bị ngân hàng nhà nước đưa vào kiểm soát đặc biệt hoặc bị phá sản, đối với cán bộ nhân viên, do ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh nên chế độ phúc lợi, thu nhập sẽ bị hạn chế vì thế những người có năng lực sẽ thuyên truyền công tác, càng gây khó khăn cho ngân hàng.
Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu thu được từ hoạt động tín dụng. Đó là nguồn thu chính của các ngân hàng do đó, việc tăng lợi nhuận tức là phải tăng quy mô của hoạt động tín dụng lên. Như vậy đồng nghĩa với rủi ro tín dụng tăng lên. Việc mở rộng tín dụng lên thì việc giám sát và kiểm tra các hồ sơ tín dụng trở lên yếu kém đi. Việc giám sát của các cán bộ tín dụng đối với các hồ sơ tín dụng lơi lỏng, và việc tuân thủ các quy trình tín dụng cũng bị lơ là.
Trình độ và năng lực của cán bộ tín dụng yếu kém, đây cũng là một nhân tố gây ra rủi ro trong tín dụng. Một người cán bộ yếu kém về năng lực, khi tiếp nhận hồ sơ của khách hàng thì khả năng phân tích và thẩm định dự án không đúng về dự án. Trong trường hợp này nhân viên tín dụng có thể bị khách hàng lừa gạt, hoặc lựa chọn dự án tài trợ không chính xác. Như vậy khả năng mất vốn rất cao. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có năng lực cao.
Quy trình tín dụng đối với các ngân hàng là một bí mật riêng. Quy trình tín dụng chưa chặt chẽ hoặc quá cụ thể, quá linh hoạt đều có thể là nhân tố gây ra rủi ro tín
dụng. Những vấn đề nổi cộm hiện nay trong các quy trình tín dụng là đánh giá lại giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Nhân tố do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng gây ra trong quá trình thu hút khách hàng. Đó là việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, chủ quan. Thậm chí có nhiều ngân hàng liều lĩnh chấp nhận rủi ro cao, nhằm đạt được mức lợi nhuận cao mà bất chấp những hồ sơ tín dụng không lành mạnh, thiếu an toàn.
Ngoài ra còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng thuộc về ngân hàng như : chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong ngân hàng, cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ…
Tóm lại rủi ro tín dụng có thể gây hậu quả nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn, có thể bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy pháp luật đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng bắt buộc phải xây dựng hệ thống quản lý tín dụng thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng
1.3.1. Khái niệm và mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng
- Khái niệm :
Theo Tổ chức Moody’s Analytics, quản trị RRTD là một quá trình thực hiện các biện pháp giảm tổn thất bằng cách hiểu một cách đầy đủ về vốn và dự phòng RRTD trong một khoảng thời gian nhất định. Với quan điểm này thì quản trị RRTD thực chất là việc nhà quản trị có những biện pháp để quản lý vốn và dự phòng cho RRTD.
Một cách phát biểu khác của Ủy ban Basel cho rằng, quản trị RRTD là việc thực hiện các biện pháp tối đa hóa tỷ suất sinh lời điều chỉnh theo RRTD bằng cách duy trì số dư tín dụng trong phạm vi các tham số cho phép. Khái niệm về quản trị RRTD của Ủy ban Basel đã làm rò được vấn đề đó là mục đích của quản trị RRTD là tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đảm bảo tổn thất do RRTD gây ra nằm trong giới hạn mà ngân hàng có thể chấp nhận được.
Theo khung quản trị RRTD của ngân hàng Standard Charter (năm 2012), quản trị RRTD là quá trình quản lý RRTD thông qua thiết lập khung các chính sách và thủ