Kinh nghiệm phát triển du lịch quốc tế Thái Lan và giải pháp đối với du lịch Việt Nam - 2


1. Lý do chọn đề tài:

LỜI NÓI ĐẦU

Du lịch ngày nay không còn là một khái niệm xa xỉ, nó đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội nói chung. Nhu cầu về du lịch ngày càng gia tăng mạnh mẽ, kéo theo nó là sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp du lịch trên thế giới. Xu hướng phát triển đó là một tất yếu khách quan.

Theo dự đoán của tổ chức thương mại thế giới WTO, khu vực Đông Á- Thái Bình Dương cùng với Nam Á, Trung Đông và Châu Phi sẽ trỗi dậy mạnh trong thu hút khách du lịch quốc tế từ nay đến năm 2020, tốc độ phát triển du lịch nói chung là 8-10%, chiếm 25% tổng số lượt khách đến trên toàn cầu [21]. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với ngành du lịch Châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của ngành du lịch không nằm ngoài xu hướng phát triển của khu vực và thế giới.

Ngày 07/11/2007, Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Cánh cửa WTO mở ra những cơ hội lớn và cả những thách thức lớn đối với đất nước nói chung và đối với ngành du lịch Việt Nam nói riêng. Đứng trước thách thức hội nhập, tất cả các ngành kinh tế quốc dân đều phải "tăng tốc” để phát triển kịp vói tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới, nếu không chúng ta sẽ bị "loại khỏi vòng chơi”. Ngành du lịch Việt Nam đã và sẽ mang trong mình một sứ mệnh to lớn- đó là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.

Ngành du lịch Việt Nam là một nền công nghiệp non trẻ, tính đến ngày 09/07/2006, ngành du lịch tròn 46 tuổi. Trong 10 năm trở lại đây, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 14 lần. Năm 2005, ngành du lịch nước ta đã đón trên 3,47 triệu lượt khách, tăng 20,1% so với năm 2004. Bảy tháng đầu năm 2006, lượng khách quốc tế ước đạt 2,15 triệu lượt, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm ngoái. Du lch đã trở thành một ngành kinh tế có mức tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân [15]. Tuy nhiên, nếu đặt bút so sánh với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Thái Lan- Đất nước láng giềng của chúng ta- Một “thủ phủ du lịch của Châu Á” với số khách hàng năm lên tới hơn 11 triệu lượt và doanh thu hàng năm từ du lịch

lên tới chục tỷ USD, thì du lịch Việt Nam vẫn thực sự bị coi là kém phát triển. Tại sao cùng nằm trong khu vực địa lý, với điều kiện về tự nhiên tương đương nhau mà ngành du lịch Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch nhau quá lớn như vậy? Và bằng những biện pháp nào để “ngành công nghiệp không khói” của chúng ta bắt kịp với nước bạn và thế giới trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Đó là một câu hỏi khó cần lời giải đáp cho quốc gia, cho ngành du lịch và cho tất cả chúng ta. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển du lịch quốc tế Thái Lan và giải pháp đối với du lịch Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu:

Khóa luận tập trung nghiên cứu chung về tình hình du lịch quốc tế Thái Lan, những biện pháp và kinh nghiệm phát triển, nhìn nhận lại những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam từ đó nêu ra những giải pháp nhằm đóng góp cho sự phát triển của ngành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

3. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng mà khoá luận tập trung nghiên cứu là tình hình du lịch quốc tế của Thái Lan và Việt Nam

Kinh nghiệm phát triển du lịch quốc tế Thái Lan và giải pháp đối với du lịch Việt Nam - 2

4. Phạm vi nghiên cứu:

Khoá luận chủ yếu nghiên cứu tình hình phát triển du lịch quốc tế của Thái Lan, những kinh nghiệm và biện pháp phát triển từ đó nêu ra bài học và các giải pháp đối với du lịch Việt Nam

5. Phương pháp nghiên cứu:

Khoá luận được thực hiện bằng cách tổng hợp tài liệu, sau đó phân tích, đối chiếu, so sánh và đánh giá.

6. Kết cấu khoá luận được chia thành 3 phần: Chương 1: Khái quát chung về du lịch

Chương 2: Tình hình du lịch quốc tế của Thái Lan và kinh nghiệm phát triển Chương 3: Điều kiện phát triển, thực trạng và các giải pháp đối với du lịch

Việt Nam

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DU LỊCH‌‌


I - LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH

1. Khái niệm về du lịch

Ngày nay du lch đã trở thành một hiện tượng kinh tế- xã hội phổ biến. Hội đồng lữ hành và du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Concil- WTTC) đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương, tại nhiều quốc gia khác, du lịch là một ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch ngày nay là một đề tài hấp dẫn, trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống.

Theo tổ chức du lịch thế giới WTO (World Tourism Organization) thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD, năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người, thu nhập là 474 tỷ USD, dự tính đến năm 2010 lượng khách là 1006 triệu lượt người và thu nhập là 900 tỷ [1]

Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người, nhưng mãi đến năm 1811, lần đầu tiên ở Anh đã có định nghĩa về du lịch: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí” [1] . Ở định nghĩa này nhấn mạnh sự giải trí là động cơ chính của du lịch.

Định nghĩa của đại học Traha( Cộng hoà Séc): “Du lịch là tập hợp các hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau, loại trừ mục đích hành nghề và thăm viếng có tính chất thường xuyên” [1]

Định nghĩa của trường tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgary: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế- xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn, chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ, hàng hoá của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập- Đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với mục đích thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất và

tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hoá, chính trị, kinh tế..) mà không có mục đích là kiếm lời” [1]. Định nghĩa này đã xem xét rất kỹ hiện tượng du lịch như là một phạm trù kinh tế với đầy đủ tính đặc trưng và vai trò của một bộ máy kinh tế, kỹ thuật điển hình.

Qua những định nghĩa trên đây, ta có thể hiểu du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động có tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp. Định nghĩa trên đã tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch trên thế giới và ở Việt Nam trong những thập niên gần đây.

Trong pháp lệnh du lịch của Việt Nam, tại điều 10 thuật ngữ du lịch được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [2]

Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù gồm nhiều thành phần tham gia tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế lại vừa có đặc điểm của ngành văn hoá- xã hội.

Trên thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều nước không những đã đem lại lợi ích kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội...ở nhiều nước trên thế giới ngành du lịch phát triển với tốc độ cao và trở thành ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, nguồn thu nhập từ du lịch đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội.

Chính vì những lẽ trên, Hội nghị du lịch thế giới họp tại Manila, Phillippin (1980) đã tuyên bố Manila về du lịch, trong điều 2 ghi rõ: “...trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21 và trước triển vọng của những vấn đề đặt ra đối với nhân loại, đã đến lúc cần thiết và phải phân tích bản chất của du lịch, chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao động được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du

lịch từ một phạm vi hẹp của thú vui sang phạm vi lớn hơn của cuộc sống kinh tế và xã hội. Sự đóng góp của du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trở thành một luận cứ tốt cho sự phát triển của thế giới. Vai trò thiết thực của du lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cân bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành hoạt động kinh tế quan trọng nhất.” [1].Tuyên bố trên đã khái quát được xu hướng phát triển của du lịch ngày nay đồng thời làm cho ta thấy rõ được tầm quan trọng của nó trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, để mỗi quốc gia có chiến lược phát triển du lịch phù hợp với yêu cầu khách quan của toàn cầu.

2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó

2.1. Khái niệm

Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho khách du lịch, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiện, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.

2.2. Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch

Qua khái niệm trên chúng ta có thể thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả những yếu tố hữu hình và những yếu tố vô hình. Yếu tố vô hình chính là dịch vụ.

Xét theo quy trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau:

Dịch vụ vận chuyển

Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, đồ ăn, thức uống.

Dịch vụ tham quan, giải trí.

Hàng hoá tiêu dùng và hàng lưu niệm.

Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch

2.3. Những nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (Thường chiếm 80%-90% về mặt giá trị), hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ. Do vậy việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, vì thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào

người kinh doanh mà phụ thuộc vào khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch.

Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do vậy sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được trên thực tế, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến với nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch. Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm, nó cũng là đặc điểm khác biệt so với những sản phẩm hàng hoá thông thường. Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu thụ các sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các hàng hoá thông thường khác. Do vậy để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn. Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vo cùng quan trọng đối với cá nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như về mặt lý luận trong kinh doanh du lịch.

3. Các loại hình du lịch

3.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch, theo tiêu thức này, du lịch được chia thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa

Du lịch quốc tế: Là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau, ở hình thức du lịch này khách phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.

Du lịch nội địa: Là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm cùng trong lãnh thổ của một quốc gia.

3.2. Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch, theo tiêu thức này, du lịch được chia thành các hình thức sau

Du lịch chữa bệnh: Khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Ví dụ như: Chữa bệnh bằng khí hậu, bằng nước khoáng, bùn, hoa quả, sữa...

Du lịch nghỉ ngơi giải trí: Nhu cầu chính nảy sinh hình thức du lịch này là sự cần thiết phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng làm giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng và giải thoát con người khỏi công việc hàng ngày...

Du lịch thể thao: Gồm có hai hình thức sau:

Du lịch thể thao chủ động: Khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao như: Leo núi, săn bắn, câu cá, đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ...

Du lịch thể thao thụ động: Là những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao quốc tế, các thế vận hội Olympic...

Du lịch văn hoá: Là hình thức du lịch mà mục đích chính là nhằm nâng cao hiểu biết cho cá nhân về mọi lĩnh vực như: Lịch sử, kiến trúc, hội hoạ, chế độ xã hội, cuộc sống của người dân cùng các phong tục, tập quán của các nước.

Du lịch công vụ: Mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Với mục đích này, khách du lịch đi tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo, kỷ niệm, các ngày lễ lớn, các cuộc gặp gỡ, các cuộc triển lãm văn hoá...

Du lịch thương gia: Mục đích chính của du lịch thương gia là đi tìm hiểu thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, ký kết hợp đồng...

Du lịch tôn giáo: Loại hình du lịch này nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các đạo giáo khác nhau.

Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương: Là loại hình du lịch nảy sinh do nhu cầu của những người xa quê hương, muốn về thăm lại quê hương mình, thăm làng xóm, họ hàng...

Du lịch quá cảnh: Du lịch quá cảnh nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước nào đó trong một thời gian ngắn để đến nước khác.

3.3. Căn cứ vào đối tượng khách du lịch

Du lịch thanh thiếu niên

Du lịch cho những người cao tuổi

Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình

3.4. Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi

Du lịch theo đoàn

Du lịch cá nhân

3.5. Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng

Du lịch bằng xe đạp

Du lịch bằng xe máy

Du lịch bằng xe ô tô

Du lịch bằng tầu hoả

Du lịch bằng tầu thuỷ

Du lịch bằng máy bay

3.6. Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng

Du lịch ở khách sạn

Du lịch ở khách sạn ven đường

Du lịch ở lều, trại

Du lịch ở làng du lịch

3.7. Căn cứ vào thời gian du lịch

Du lịch dài ngày

Du lịch ngắn ngày (Thường gọi là du lịch cuối tuần)

3.8. Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch

Du lịch nghỉ núi

Du lịch nghỉ biển, sông, hồ

Du lịch thành phố

Du lịch đồng quê

4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch

Để tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch, đòi hỏi phải có các loại hình kinh doanh du lịch tương ứng. Cho đến nay về phương diện lý thuyết cũng như thực tế được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam, có bốn loại hình kinh doanh du lịch tiêu biểu sau:

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí