Không Gian Trời Xưa, Còi Biếc Là Cội Nguồn Cho Linh Hồn Trở Về


kiếm tìm tới còi Đẹp ­ nơi chứa đựng tình yêu, cuộc sống của con người trần thế.

2.1.3. Không gian tiên cảnh đậm tình luyến ái

Không gian trong thơ Thế Lữ là không gian khoáng đạt, đầy tình luyến ái. Ông say đắm còi Tiên để rồi luôn ở trong còi mộng. Không gian tiên cảnh tràn ngập trong thơ Thế Lữ, chưa bao giờ ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp mang màu sắc luyến ái như thế. Ông say mê vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha của

các nàng tiên, du dương cùng cảnh tiên. Nhà thơ luôn tạo ra một không gian

đắm say, huyền diệu với “một không khí mơ màng, một lớp lang gợi cảm và mời gọi bóng hình giai nhân” [1, 323]:

“Se sẽ nổi ­ Bức rèm châu biến

Từ khung tối, một nàng tiên kiều diễm Nhẹ bước ra, tươi như ánh bình minh, Đôi mắt đen, đắm đuối long lanh,

Như đôi ngọc huyền, sâu xa huyền bí”

(Hoa thuỷ tiên)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.


Thế

Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu - 8

giới tiên cảnh

ấy vừa như

mời gọi quyến rũ, lại vừa như

thầm

nhắc nhà thơ hãy dừng lại ở bên sự ngưỡng vọng với một chút dịu dàng, mơ hồ, đó là sự ngưỡng vọng về cái đẹp của cảnh tiên cùng các nàng tiên nữ nơi tiên giới.

“Thực ra khi hướng lòng mình tới miền cảm xúc thẩm mĩ nơi tiên giới.

Thế

Lữ đã tạo ra trong thơ

mình một vẻ

đẹp riêng, một sức hấp dẫn riêng

trong sự giao hoà của hai thế giới thực và mộng, còi tiên với còi đời” [1, 324]. Thế nhưng cũng chính nhà thơ lại tự giãi bày về duyên cớ của cuộc du ngoạn ấy khiến cho ranh giới giữa còi Tiên và còi Trần dường như không còn cách biệt:


“Hôm qua đi hái mấy vần thơ Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ;

Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo Gió đào mơn trớn liễu buông tơ”

(Vẻ đẹp thoáng qua)

Mối tương giao giữa còi Tiên và còi Trần còn được nhà thơ khéo léo tạo ra với những hình ảnh các nàng tiên lúc ẩn, lúc hiện:

“Trong phòng khách, dưới ánh đèn rạng rỡ Cụm hoa đào say sưa bừng mới nở,

Như tiên nga vừa thức giấc thần tiên, Hoa thẹn thò giương mắt ngạc nhiên...”

(Hoa thuỷ tiên)

Không gian bàng bạc, man mác khắp còi đất trời khiến cho hồn thơ đầy cảm xúc lãng mạn của Thế Lữ muốn được thoát thai đến còi Tiên để đắm say, giao hoà với các nàng tiên, để lại trong lòng tác giả một tình cảm quyến luyến không muốn rời. Còi Tiên hay còi Thiên nhiên chính là còi Đẹp nhằm thoả sức cho khát khao “mơ một giấc mơ không cùng” của nhà thơ.

Còi Tiên cũng chính là nguồn cảm xúc thẩm mĩ nổi bật của Thế Lữ,

trong My vn thơ những từ ngữ có liên quan đến còi Tiên dày đặc trong thơ ông (không dưới bốn mươi lần) như: cung nguyt, cung trăng, cung tiên, Bng Lai, Đào Nguyên,... cùng các từ ngữ, hình ảnh mang dáng vẻ tiên nữ như: Tiên Nga, Ngc N, Ngc Chân,... Điều này đã khẳng định hơn nữa sức liên tưởng bay bổng, lãng mạn của tâm hồn thi sĩ muốn hướng tới cái đẹp và khẳng định hình ảnh đẹp nhất không có gì khác ngoài hình ảnh thiên nhiên, hình ảnh đó đã được thanh lọc qua tình yêu của chính nhà thơ.


“Có những thi nhân chỉ tìm ý thơ trong tình yêu của một người. Trái lại, trong Thế Lữ thấp thoáng hình ảnh không biết bao nhiêu người. Mỗi thiếu nữ đã đi qua trong đời thi nhân hay trong trí tưởng thi nhân đều mang theo một chút hương ân ái. Đối với họ thi nhân chưa đủ thân mật để gọi bằng em; thi nhân chỉ dùng hai tiếng “cô em”, nghe lẳng lơ, mà xa vời và thiếu tình ấm áp.

Có lẽ

Thế

Lữ là một người khát yêu, lòng mở

sẵn để

đón một tình duyên

không thấy tới” [64, 59]. Mối tình của Thế Lữ được giăng mắc khắp còi đất trời khiến cho cảnh tiên trong thơ ông càng thêm đậm tình luyến ái:

­ “Mây hồng ngừng lại sau đèo,

Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi”

(Tiếng sáo Thiên Thai)

­ “Trời có những dải mây huyền thấp thoáng Như vấn vương lưu luyến quyện lòng ai”

(Nhan sắc)

Nhịp điệu, âm vang trong thơ Thế Lữ dịu dàng, tự nhiên mà trong sáng một cách lạ kỳ. Vẻ đẹp trong còi Tiên qua cảm nhận của nhà thơ chính là “ảo ảnh” của đời sống trần gian. Có lẽ đúng Phạm Đình Ân đã nhận xét: “Thế Lữ không hề lầm lẫn như Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Vit Nam: “Thi nhân tưởng quê hương mình là tiên giới và quên rằng đặc sắc của người chính ở

chỗ tả những vẻ đẹp thực của trần gian” [1, 21]. Có nhiều người cho rằng,

nếu bỏ phần thơ nói đến còi Bồng Lai của Thế Lữ thì thơ Thế Lữ không còn độc đáo và riêng biệt nữa. Những bài thơ nói đến còi Tiên trong thơ ông hầu hết đều là những bài thơ hay, bởi vì nhà thơ “chỉ là một khách tình si ­ Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể” và rồi trên con đường đi tìm cái đẹp để tự hoàn

thiện cái “tôi” của mình nhà thơ

đã tìm đến thiên nhiên, vào còi Tiên để

thể

hiện quan điểm nghệ thuật của mình trong đó.

2.2. Huy Cận với không gian vũ trụ


Không gian Thơ mới là nơi con người cá nhân cô đơn, bơ vơ, lạc lòng đi tìm mình, ý thức về mình và bộc lộ mình, thể hiện mình và tìm lối thoát.

Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ nhạy bén với vận động của thời gian, thì

Huy Cận lại là người có sự rung động tinh tế trong từng khoảng nhỏ không

gian. Đối với Huy Cận, không gian là đối tượng nhận thức, là khách thể thẩm

mĩ, là nguồn cảm hứng, là phương tiện bộc lộ

giãi bày chủ

thể

trữ

tình, là

phương tiện bộc lộ cá tính sáng tạo của nhà thơ. Trong lúc Xuân Diệu quan tâm nhiều đến thời trẻ ngắn ngủi của nhân gian thì Huy Cận luôn thường trực nỗi khắc khoải không gian, ý thức sâu sắc về sự hữu hạn của con người trước không gian vô tận, ông đau đáu muốn hoà nhập vào không gian để tồn tại vĩnh hằng. Nỗi nhớ không gian của Huy Cận là nỗi nhớ về một không gian trên cao, nơi “trời xa”, “còi biếc”. Nỗi nhớ ấy da diết như nỗi nhớ quê hương:

“Tôi luồn tay nhỏ hứng không gian Vớt gió xa xôi lạnh lẽo ngàn

Tôi để cho hồn theo với lá

Xiêu xiêu cúi nhẹ trút buồn tràn”

(Mưa)

Thơ nói chung, Thơ mi nói riêng, có quá nhiều ly biệt; trong ly biệt quá

quen bóng dáng con thuyền: Hôm qua dưới bến xuôi đò… (Nguyễn Bính),

Thuyền ơi thuyền xin ghé bến lênh đênh…(Vũ Hoàng Chương). Thơ Huy Cận

cũng không hiếm cánh buồm viễn xứ:

Thuyền về

nước lại sầu trăm ngả…

(Tràng giang), Thuyn người đi mt tun trăng…(Thuyn đi), Vn thuchmong mt cánh bum…(Đảo). Tất cả đều là thuyền trôi, thuyền dạt bơ vơ, người đi mất hút xa tít mù khơi…

2.2.1. Không gian trời xưa, còi biếc là cội nguồn cho linh hồn trở về

Đọc thơ Huy Cận, người đọc có thể thấy rằng, thiên nhiên, quê hương

đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ

ông. Nếu ở

Xuân Diệu, thiên


nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài... Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. Đúng như Xuân Diệu đã nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”.

Thơ Huy Cận là “linh hồn trời đất” (Xuân Diệu), “với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc” (Hoài Thanh), hoặc nói kiểu Bùi Giáng là “còi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương”… Thơ Huy Cận còn đặc sắc ở một chỗ khác, đó là khong không của ngôn ngữ thơ. Theo dòi đời thơ Huy Cận, những bài thơ hay của ông bao giờ cũng gắn với những khong không, những trống vắng lặng im kỳ lạ. Huy Cận là thi sĩ của những điều không nói rò, không muốn nói hết và có thể, không nói hết

được. Người đọc cũng chẳng bao giờ hiểu hết ­ hiểu hết thì hết thơ… Khi

Huy Cận xa rời đặc điểm đó, thơ ông vẫn được chấp nhận nhưng không sống được lâu. Điều đó góp phần lý giải vì sao, vẫn hồn thơ ấy, vẫn tài hoa ấy mà thơ Huy Cận có lúc không phải là một ngọn La thiêng.

Trong thơ Huy Cận, nét nào của cảnh vật, dẫu tuyệt đẹp, vẫn phảng

phất nỗi buồn. Nhìn một xóm làng, một phiên chợ vừa tan, một bến đò, Huy Cận cảm đến tận đáy lòng một nỗi sầu muộn mênh mang, nỗi cô đơn của thân phận trước cái vô cùng của cuộc sống:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu; Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều; Nắng xuống trời lên sâu chót vót;


Sông dài trời rộng bến cô liêu”

(Tràng giang)

Mới ngoài 20 tuổi mà ông đã có những câu thơ thật tinh tế, thật tuyệt diệu khi quan sát thiên nhiên: “Nắng xuống, trời lên”, với cái cảnh “sâu chót vót” thật là tài tình và đặc sắc, mang cái riêng của Huy Cận. Cảnh trong bài

Tràng giang của Huy Cận là một dòng sông. Dòng sông ấy mênh mang và

phảng phất buồn nhưng đẹp lắm, đẹp nhất là nó đã gợi lên mối tình quê hương đằm thắm, tưởng rất nhẹ nhưng sâu thẳm và bền bỉ vô cùng:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang; Không cầu gợi chút niềm thân mật;

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng (...)

Lòng quê dợn dợn vời con nước; Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

(Tràng giang)

2.2.2. Không gian vũ trụ với vẻ đẹp hài hoà và trong sáng

Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ ­ cuộc đời, sự sống ­ cái chết, nỗi buồn ­ niềm vui, hiện thực ­ lãng mạn. Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành tồn tại, thành hai cực hấp dẫn hồn thơ Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời, nhưng cảm hứng về cuộc đời không tách rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên tìm hiểu những bí ẩn của không gian vô cùng cũng

đồng thời nhìn về trái đất để hiều hơn chính mình. Khát vọng ấy mang bản

chất triết lý, nhân văn cao cả. Bởi đích đến cuối cùng của nó không phải còi siêu hình nào mà chính là mặt đất, còi sống của con người.

Trong tâm thức của Huy Cận, có ba tầng không gian tương ứng với ba thế giới: trên cao, dưới thấp, chiều sâu. Tương ứng với ba thế giới đó là ba


kiểu tổ chức không gian khác nhau. Không gian trên cao là không gian vũ trụ, không gian của trời xa, còi biếc; không gian chiều sâu là địa ngục, chốn hư vô đang giam hãm những linh hồn; không gian dưới thấp là không gian trần thế. Huy Cận không quan tâm nhiều về đường nét, màu sắc mà tập trung nhìn thấu bên trong để cảm nhận đầy đủ dòng sự sống đang chảy và hương thơm đang lan tỏa của không gian vũ trụ:

“Luống đất hương thơm mùa mới dậy Bên đường chân rộn bước trai tơ

Cây xanh cành đẹp xui tay với Sông mát tràn xuân nước đậm bờ”

(Xuân)

Đối với Huy Cận, cảnh là hiện hữu của không gian, một không gian đầy tâm trạng. Huy Cận ít nói đến một không gian địa danh cụ thể. Chúng ta có thể tìm thấy cảnh làng quê Bắc bộ qua thơ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ; cảnh thiên nhiên Trung bộ qua thơ Hàn Mặc Tử, Tế Hanh. Với Huy Cận, ông có thể miêu tả cảnh thiên nhiên như ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời gian nào, không gian là phương tiện bộc lộ của thi nhân. Không gian trần thế trong

Lửa thiêng

giàu sắc thái thẩm mĩ nhưng thường bị

chia cắt, bị

bó hẹp trong

giới hạn và tạo nên nhiều đối cực.

Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể


nghe

được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có “cái nghiêng tai kỳ diệu” (Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.

Trong bối cảnh xã hội ngày càng đen tối, Thơ mới dần đi vào ngò cụt, mỗi nhà thơ loay hoay tìm lối thoát cho riêng mình. Huy Cận thoát ly vào vũ trụ và thiên nhiên. Ông hoàn chỉnh cả một hệ thống triết lý ngợi ca niềm vui siêu


thoát

ấy trong tập văn xuôi

Kinh cu tự (năm 1942). Nhà thơ

kêu gọi mọi

người trở về hòa nhập vào tạo vật, tìm nguồn vui từ thiên nhiên vũ trụ: Có lẽ tạo vật đau thương, đất trời vắng lạnh vì nỗi lòng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hãy trở về, ta hãy nhập cuộc, có nhịp sống đưa nâng, có dòng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui trọng đại dâng sóng tràn khắp còi đời.

Triết lý ấy được thể hiện đầy đủ, cụ thể trong Vũ trca ­ tập thơ viết năm 1942. Thoát vào vũ trụ, hồn thơ Huy Cận ­ với những cảm xúc mới lạ ­ trở nên khoáng đạt, mạnh mẽ hơn. Nhà thơ say sưa với cái vô cùng của trời đất, trăng sao. Nhiều tứ thơ hay, nhiều hình ảnh rực rỡ xuất hiện:

“Trời thắm duyên rằm vừng nhạc mở Chuông sao rung nhớ, tiếng vàng bay Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng Biển rủ rê lòng nhập cuộc say”.

(Lượng vui)

Bay vào vũ trụ, Huy Cận đã tìm thấy niềm vui ở đó, một không gian

khoáng đạt rộng mở trước mắt nhà thơ. Ông say sưa hòa nhập với không gian vô cùng, vô tận đó và reo ca khi:

“Trời xanh ran lá biếc Biển chóa ngập buồm vàng Gió thổi miền bất diệt

Mây tạnh đất hồng hoang”.

(Trời, Biển, Hoa, Hương)

Huy Cận như gặp lại niềm vui thuở trước, lại hân hoan, hồ hởi và rạo rực những khát khao của tuổi trẻ:

“Ta vận tấm xuân đi hớn hở Tâm tư ngào ngạt hiến dâng đời Thân cũng hát lừng cao nhịp lửa

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 28/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí