Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu - 13


“Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân

Chim nghe trời rộng dang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”

(Thơ duyên)

Vì bài thơ

được viết theo dòng thời gian tự

nhiên từ

chiều mộng đến

chiều thưa tương ứng với các cảnh như thế mà chúng ta dễ quên đi sự phân lập có chủ ý giữa hai cảnh sắc là mảnh vườn tình ái và sa mạc cô liêu. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy rất rò sự thay thế của hai thiên nhiên ấy. Tất cả giờ đây đều trống trải, lạnh lẽo, lẻ loi... Khổ thơ đầy phấp phỏng, nó gợi ta nhớ đến câu thơ: “Tôi là con nai bchiu đánh lưới. Không biết đi đâu đứng su bóng ti” (Khi chiu buông lưới). Cả con nai ấy, cả con cò này đều chỉ là hai biến thể khác nhau của cùng một cái Tôi cô đơn Xuân Diệu mà thôi. Trống trải, người ta cần nương tựa; lạnh lẽo, người ta cần hơi ấm; lẻ loi người ta cần có đôi. Tất cả chỉ là những biểu hiện của trạng thái cô đơn cố hữu. Làm sao có thể vượt thoát được nỗi cô đơn bất hạnh này? Tất cả những nhu cầu ấy chỉ được đáp ứng một khi con người đi đến tình yêu.

Sa mạc cô liêu là thế giới của “kẻ thất tình”, là thời phai của vườn tình đang suy biến, phôi pha, phai nhạt. Vì thế không khỏi có lúc giữa vườn tình mà đã thấp thoáng lảng vảng đó đây cái bóng cô liêu của sa mạc kia rồi: “Trăng sáng, trăng xa, trăng rng quá. Hai người nhưng chng bt bơ vơ”, “Trăng ngà lng lnhư buông tuyết. Trong sut không gian tch mch đời”,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi. Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn

biệt”... Khi “Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài”

Không gian nghệ thuật Thơ mới 1932-1945 qua sáng tác của một số tác giả tiểu biểu - 13

tình ái sắp sửa thành sa mạc cô liêu.

thì đó là lúc vườn


Tình ái, niềm luyến ái là nhân tố điều hành mọi hoạt động trong vương quốc thi ca Xuân Diệu, là nơi để chứa đựng không gian khoáng đạt của vườn trần nhưng cũng là nơi thi sĩ thấy hiu quạnh, cô liêu. “Vườn tình ái” và “sa mạc


cô liêu” vốn là những hình ảnh thực, đầy ấn tượng đối với thi sĩ, đã được tâm thức thơ ca Xuân Diệu dùng như cặp hình ảnh tổng quát để phân lập và quy chiếu thế giới này. Cặp hình ảnh tổng quát ấy đối lập với nhau một cách biện chứng. Nghĩa là chúng vừa tương phản nhau vừa chuyển hoá sang nhau làm nên hình tượng một thế giới toàn vẹn và sống động của Xuân Diệu. Ở phía này, thế giới hiện ra như một mảnh vườn tình ái, trong đó vạn vật đang rạo rực đắm say, đang giao duyên tình tự với nhau, bao trùm lên là một bầu sinh khí ngập tràn ánh sáng và hơi ấm. ở phía kia, thế giới lại hiện ra trong diện mạo một hoang mạc cô liêu, tất cả cứ như một còi hoang vắng, sinh khí suy biến tiêu tán ­ và cảnh đời là sa mạc cô liêu; tạo vật thành lẻ loi, trống trải, lạnh lẽo, âm u, âu sầu. Nếu mảnh vườn tình ái là thiên nhiên gợi tình, thì hoang mạc cô liêu là thiên nhiên gợi buồn. Một đằng đánh thức dậy trong con người khát khao luyến ái yêu đương, một đằng lại đánh thức nỗi cô đơn cố hữu trong từng cá thể. Dù gợi tình hay gợi buồn, thế giới xung quanh đều dẫn lối cho con người đến một cái đích duy nhất, đó là Tình yêu. Bởi chỉ đến với tình yêu con người mới được thoả những khát khao tình ái, cũng chỉ đến với tình yêu mỗi cá thể mới vượt thoát được nỗi cô đơn.

Có thể nói, trong thiên nhiên tạo vật của Xuân Diệu luôn giăng mắc hai sợi tơ như thế và sẵn sàng xe duyên cho mọi lứa đôi. Tơ duyên nảy sinh giữa những cá thể vốn xa lạ nhau chính là ý muốn của một thế giới như vậy. Một ý muốn không ai có thể cưỡng được. Không phải tơ duyên hình thành từ kiếp trước một cách siêu hình theo quan niệm nhà Phật. Mà chính tạo vật thiên nhiên quanh chúng ta đây đã xe duyên cho con người. Đó là một quan niệm rất trần thế của Xuân Diệu.

Toàn bộ

thế

giới nghệ

thuật Xuân Diệu từ

hình tượng cái tôi, hình

tượng giai nhân, đến hình tượng thế giới đều được sinh ra từ chữ Tình hay nói đúng hơn là sinh ra từ niềm khát khao luyến ái. Xuân Diệu tạo ra nó bằng tâm huyết của mình để “cất giữ tuổi trẻ mình ở đó”, để được sống mãi cùng mai sau. Xuân Diệu không bắt những người khác phải theo ông. Thế giới ấy chỉ


dành cho những ai đồng điệu, thanh khí, tri kỉ. Nó giúp con người thêm một lần nhận chân về ý nghĩa đích thực của sự sống trong còi nhân sinh này.

“Đi vào thế giới không gian nghệ thuật của thơ Xuân Diệu là bước vào

một vương quốc nghệ thuật riêng với nhiều tầng, mảng, hình khối không

gian khác nhau (...) Tất cả những yếu tố thuộc đường nét, hình thù không gian

đó đã chi phối trực tiếp đến bút pháp tạo hình và hệ 241] trong thơ ông.

thống hình

ảnh” [61,

Thế Lữ, Huy Cận, Nguyễn Bính, Xuân Diệu là những nhà thơ tiêu biểu mang những phong cách khác nhau của thời kỳ Thơ mới 1932­1945. Mặc dù họ mang những phong cách khác nhau thì vẫn có những nét chung nhất của các nhà Thơ mới đương thời, đó là trong các tác phẩm của họ đã thể hiện được cái tôi nội cảm, tính đa dạng và sự quy hồi trên những mẫu gốc truyền thống. Họ là những nhà thơ đã có những đóng góp mới mẻ trên phương diện thi pháp thơ.

Với quan niệm về không gian nghệ

thuật mới đó, thơ

Việt Nam đã bước ra

khỏi ngôi nhà quen thuộc để

hội nhập với bầu trời hiện đại hoá. Sự

thành

công của các nhà Thơ

mới trong xây dựng không gian nghệ

thuật của riêng

mình và của cả nền thơ, có lẽ là một thách thức, một gợi mở cho thơ đương đại.


KẾT LUẬN


Thơ mới và không gian nghệ thuật trong thơ mới là một đề tài đã có lịch sử nghiên cứu khá lâu dài. Luận văn của chúng tôi được hoàn thành sau khi đã có một số chuyên luận, luận án Tiến sỹ và luận văn Cao học nghiên cứu về Thơ mới được thực hiện và bảo vệ thành công, nên có thuận lợi là được kế thừa những thành quả của các tác giả đi trước. Tuy nhiên khó khăn của chúng tôi là chưa có một công trình thực sự chuyên sâu nào nghiên cứu về đề tài này một cách có hệ thống, do đó trong phạm vi khả năng của mình, chúng tôi đã phải hết sức nỗ lực cố gắng tìm tòi, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.

Xuất phát từ các vấn đề lý thuyết về không gian nghệ thuật và phạm vi khảo sát qua sáng tác của 4 tác giả tiêu biểu của phong trào như: Thế Lữ, Huy Cận, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, chúng tôi đã tổng hợp miêu tả một cách có hệ


thống những đặc điểm chủ yếu của không gian nghệ thuật trong Thơ mới giai đoạn 1932 ­1945, qua đó đã chỉ ra những nét đặc sắc đã góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật của phong trào thơ giai đoạn này.

Không gian nghệ

thuật Thơ

mới

ngoài những nét chung của không gian

nghệ thuật trong thơ như: là hình thức để cảm thụ thế giới và con người. Góp

phần cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng

trưng, và quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học, nó còn cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo

cũng như

nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ

thuật. Nghiên cứu

không gian nghệ thuật trong Thơ mới, nhận thấy:


1. Không gian nghệ

thuật trong Thơ

mới phản ánh rò khuynh hướng

chung của thời kỳ Thơ mới những năm 1932­1945: Khuynh hướng lãng mạn,

lý tưởng hóa cuộc sống rối ren, rối bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong

kiến và mang tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lòng của các tác giả giữa vòng

đời.

Đây không phải là một hiện tượng lạ

mà do những nguyên nhân khách

quan chung. Họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội

tan tác

ấy. Họ

cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ

nhạt

như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm thấy lạc lòng, bơ vơ giữa xã hội. Vì vậy, trong Thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng.

2. Không gian nghệ thuật Thơ mới

đã góp phần cùng toàn bộ

thi pháp

Thơ mới hiện đại hoá thi ca nước nhà, chuyển từ thơ Trung đại sang thơ Hiện

đại.

Nếu trong thơ

cổ, không gian, thiên nhiên, vũ trụ

bao la chỉ

để “nhìn

ngắm”, “đề vịnh” thì trong Thơ mới không gian được chiếm lĩnh như một đối tượng thẩm mĩ. Ở đó, cái Tôi ra đời đòi hỏi giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải là con người ý thức nghĩa vụ. Qua bốn tác giả được tìm hiểu, có thể thấy rằng nếu Huy Cận tìm ra những con đường kinh nghiệm nội tâm hòa hợp với không


gian: nước, mộng mơ

và tình yêu, thì Xuân Diệu kéo cả

vũ trụ

lại gần mà

hưởng thụ trong cái thế giới trần gian của mình. Nếu Thế Lữ tìm giấc mộng lên Tiên để đắm say với còi Đẹp thì Nguyễn Bính lại níu giữ “hồn xưa của dân tộc” với những điệu thơ du dương, êm dịu. Những cái Tôi được đề cao đó như một sự khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

3. Không gian nghệ thuật trong Thơ mới phản ánh rò nét sự phong phú

và làm đa dạng thêm cho không gian nghệ thuật trong thơ Việt Nam. Lần đầu

tiên trong lịch sử

thi ca nước nhà, xuất hiện hình

ảnh con người là chủ

thể

trước không gian, con người với khát vọng chiếm lĩnh, làm chủ vũ trụ, không gian. Điều đó đã phá vỡ sự đơn điệu, nhàm chán, sáo rỗng, ước lệ, tập cổ, tạo nên dáng vẻ hấp dẫn và sức sống mới của không gian nghệ thuật, tạo tiền đề cho sự phát triển của Thơ ca sau này.

4. Kết quả nghiên cứu Không gian nghthut Thơ mi 1932­1945 (qua sáng tác của bốn tác giả tiêu biểu) góp thêm một phần nhỏ cứ liệu về lý luận

và thực tiễn cho nghiên cứu Thơ

mới. Khẳng định một lần nữa giá trị

nghệ

thuật, những đóng góp to lớn mà Thơ mới mang lại cho thi đàn Việt Nam. Qua việc giải mã hình tượng không gian nghthut, chúng ta có thể khắc hoạ được diện mạo của của cả một trào lưu thơ và không chỉ góp thêm những cứ liệu cho

việc nghiên cứu Thơ

mới mà còn có thể

rút ra những căn cứ để

đánh giá về

những biến đổi trong không gian nghệ thuật của thơ ca đương đại, là những cứ liệu so sánh cần thiết để tìm hiểu Thơ ca trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu Không gian nghệ thuật là một công việc phức tạp và đòi hỏi nhiều công sức. Bản thân chúng tôi ­ những người trực tiếp nghiên cứu đề tài cũng cảm thấy chưa khai thác hết các tầng sâu ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của đề tài này. Do điều kiện thời gian và năng lực có hạn, còn biết bao thông tin, bao vấn đề chúng tôi chưa có điều kiện đề cập tới. Những gì đã trình bày cũng khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy chúng tôi rất mong nhận


được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp... để luận văn được hoàn thiện hơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Phạm Đình Ân (giới thiệu và tuyển chọn, 2006), Thế Lvtác gia và tác phm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Phạm Đình Ân (2009), Kể chuyện các nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam.

3. Phạm Đình Ân (2009), Kể chuyện các nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, tập 2 Nxb Giáo dục Việt Nam.


4. Nguyễn Phan Cảnh (1987), chuyên nghiệp, Hà Nội.

Ngôn ngữ

thơ,

Nxb Đại học và Giáo dục

5. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ

biên, 1993),

Nhìn lại một cuộc cách mạng

trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Lê Tiến Dũng (1994), “Loại hình câu thơ của Thơ mới”, Tp chí Văn hc, (1).


7. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu

thơ

trữ

tình (nhìn từ

góc độ

loại hình),

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

8. Phan Cự Đệ (1966), Phong trào Thơ mi, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

9. Phan Cự Đệ ­ Nguyễn Toàn Thắng (tuyển chọn và giới thiệu, 2002), Hàn Mc T, vtác gia và tác phm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Phan Cự Đệ (2002), Văn hc lãng mn Vit Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.


11. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê

Chí Dũng, Hà Văn Đức (2000), Văn hc Vit Nam (1900­1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn, 2009),

chn lc, Nxb Giáo dục Việt Nam.

Huy Cận tác phẩm


13. Hà Minh Đức (1994), Nội.

Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê, Nxb Giáo dục, Hà

14. Hà Minh Đức (1997), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Thơ

và mấy vấn đề

trong thơ

Việt Nam hiện đại,

15. Hà Minh Đức (1997), Nội.

Một thời đại trong thi ca,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà

16. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ slý lun văn hc, tập 2, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

17. Hà Minh Đức ­ Đoàn Đức Phương (tuyển chọn và giới thiệu, 2003),

Nguyễn Bính về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 28/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí