Khảo sát ý nghĩa hình ảnh trong ca dao - dân ca Tày - Nùng - 7


Trong ca dao - dân ca người Việt, con cò, con bống là những hình ảnh vô cùng thân quen. Từ nửa cuối những năm 50 của thế kỷ trước trong bài tiểu luận "Một đặc điểm tư duy hình tượng của nông dân về cuộc đời; đời người với đời con cò và con bống" của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã có những phát hiện vô cùng thú vị và quan trọng.

Về hình ảnh con bống theo Vũ Ngọc Phan có thể là hình ảnh tượng trưng cho người thiếu nữ hay người thiếu phụ:

Cái bống đi chợ cầu Canh

Mua giấy mua bút cho anh vào trường Nay mai anh đỗ làm quan

Võng anh đi trước võng nàng theo sau

Hay:


Cái bống cõng chồng đi chơi Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Nhà nghiên cứu đã nhận xét rất đúng rằng nhìn chung "Đối với người nông dân, con bống có vẻ xinh xẻo, hiền lành cho nên mỗi khi nói đến cái bống là người nông dân ta nói với giọng nâng niu"[39, 68].

Còn về hình ảnh con cò, theo ông nó là sự đại diện cho cả trai lẫn gái. Ông nhận thấy trong ca dao - dân ca người Việt hay nói đến hình ảnh loài chim này. Ông đã viết rất chính xác và tinh tế "Trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò gần với người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy con cò ở bên họ: Con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên đồng ruộng rỉ a lông, rỉa cánh, ngắm nghía người nông dân làm lụng...",[39, 62] "Con cò trắng bạch kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh. Nó cũng vất vả nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc sống mà người nông dân ta mong ước"[39, 62].


Vũ Ngọc Phan đã giới thiệu với người đọc những lời ca dao sau về hình ảnh phong phú của con cò:

- Một đàn cò trắng bay tung Bên nam bên nữ ta cùng hát lên

- Một đàn cò trắng bay quanh Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta

- Mình nhớ ta như cà nhớ muối Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng

- Cái cò, cái vạc, cái nông

Ba con cùng béo vặt lông con nào Vặt lông cái vạc cho tao

Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thuôn

- Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ mày nằm với ai Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối không ai cho nằm.

....................................................

Những dẫn chứng vừa nêu trên là cơ sở để nhà nghiên cứu đi đến kết luận "Trong ca dao người dân lao động Việt Nam đã mượn đời sống của con cò để biểu hiện đời sống của mình và dùng hình ảnh con cò để gợi hứng, để tỏ sự mong muốn của mình, nói lên những đức tính, nông nỗi khổ cực của mình và cả những thói xấu của mình nữa"[39, 67].

Bài tiểu luận của Vũ Ngọc Phan không những là một đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu hình ảnh, biểu tượng trong ca dao - dân ca mà còn là cơ sở để so sánh với hình ảnh, biểu tượng trong ca dao - dân ca dân tộc thiểu số nói chung và trong ca dao - dân ca Tày Nùng nói riêng mà ở đây là hình ảnh con bống, con cò. Qua khảo sát 728 bài ca dao - dân ca Tày Nùng chúng tôi nhận thấy hình ảnh con cò chỉ xuất hiện duy nhất 1 lần với ý nghĩa


miêu tả cảnh đồng ruộng bát ngát, bao la chứ không mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc đời hay tính cách của người nông dân. Đó là bài ca dao sau:

Sao em phát rẫy xì xò a

Không ăn gạo nếp ruộng nhà cùng ai Ruộng nhà thẳng cánh cò bay

Đốt nương khói tỏa suốt ngày cực thân

[4,58]

Với hình ảnh con bống dù là xinh xẻo, hiền lành nhưng trong ca dao - dân ca Tày Nùng các tác giả dân gian không hề nhắc đến hình ảnh này một lần nào.

Trên bình diện dân tộc, các hình ảnh, hình tượng của các dân tộc không phải lúc nào cũng mang ý nghĩa giống nhau. Hình ảnh con cò, con bống trong ca dao - dân ca người Việt là hình ảnh mang nghĩa biểu trưng cho thân phận con người, cho tính cách, hoàn cảnh và cho cả phẩm chất. Nhưng ý nghĩa này không hề gắn với hình ảnh con cò trong ca dao - dân ca Tày Nùng. Qua khảo sát của nhà nghiên cứu Vi Hồng ở khoảng dăm nghìn bài sli - lượn đã rút ra nhận xét. "Con cò chỉ xuất hiện 2 lần ở khoảng dăm nghìn bài sli - lượn với tư cách là đồ tầm thường, bẩn thỉu" [20,76] ý kiến của Vi Hồng đã góp phần khẳng định hình ảnh con cò không phải là hình ảnh quen thuộc trên cánh đồng miền núi, càng không mang ý nghĩa biểu trưng cho số phận, tính cách con người miền núi.

Người miền núi sống giữa rừng xanh chập trùng được nhìn "Trăm thứ chim" và "Nghe nghìn giọng hót" nhưng như thế chưa nói hết sự phong phú của các loài vật nơi đây. Ca dao - dân ca Tày Nùng còn nhắc đến hình ảnh ong, bướm (60 lần), Ve (35 lần). Ong, bướm, ve thường đi với nhau tạo thành cặp: Bướm - ong, ong - ve và đặt trong mối quan hệ giao hòa, quấn quýt với hoa lá, cỏ cây nhằm diễn đạt những cung bậc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa.


Cũng chính vì lẽ đó cụm từ ong - bướm đi liền nhau không mang ý nghĩa như trong cách hiểu của người Việt.

Năm mười hai tháng chuyển vần Bướm ong giao hẹn quây quần cùng hoa

Gái trai trẩy hội lại qua

Trai tài gái sắc lân la bên đường

[4,138]

Cá, tôm và các loài thủy sản cũng được nhắc nhiều trong ca dao - dân ca Tày Nùng, nổi bật trong nhóm này là hình ảnh cá với 73 lần xuất hiện với các loài cá: Cá liềng, cá viốc, cá hồng, cá chép, cá trôi, cá chầy,... những loài cá đặc trưng vùng Việt Bắc. Trong ca dao - dân ca Tày Nùng cá là hình ảnh quen thuộc giới thiệu về sản vật của một vùng quê , không chỉ có vậy , cá còn được dân gian đưa vào câu hát của họ để biểu thị số phận, tính cách con người miền núi và cả nhữ ng quan niệ m về đạ o đứ c, lẽ sống ở đời:

Ăn trầ u thấ y lạ không vôi

Cá uống nướ c khắ p muôn nơi hư lò ng Con ngườ i chớ nế m lung tung.

[4, 111]

Là cư dân sống ven sông, suối, được thừa hưởng nhiều ưu đãi của thiên nhiên nên người Tày Nùng rất thành thạo việc đánh bắt tôm cá. Sông, suối vừa là nguồn thủy lợi vừa là kho thực phẩm phục vụ nhu cầu hàng ngày của con người. Một đặc điểm độc đáo của địa lý nước ta là hầu như những chỗ nào có nước, dù nông hay sâu đều có cá, có nhiều cá trú ngụ, sinh sôi và nảy nở. Tại những chân ruộng bậc thang có nước cũng có nhiều cá. Người miền núi không chỉ biết khai thác nguồn thủy sản sẵn có mà nhiều nơi, người ta còn thả thêm cá vào ruộng để tăng thu hoạch. Việc nuôi cá ruộng trở thành một tập quán lâu đời của người Tày Nùng. Vì thế, đánh bắt cá, tôm cũng là nghề


phổ biến từ xa xưa của người Tày Nùng. "Cá thường được thả ở chân ruộng sâu, lắm bùn, màu mỡ, đủ thức ăn cho cá. Khoảng tháng giêng, tháng hai hàng năm vào mùa cá sông suối đẻ trứng, chỉ cần ra sông suối vớt lấy trứng cá mang về ươm trong ao gần nhà hay chân ruộng đã được chuẩn bị trước. Đến khoảng tháng năm, tháng sáu khi mạ đã bén rễ xanh tươi, rồi mới đem thả cá con xuống gốc lúa để cá ăn mùn và sục bùn chân lúa cũng thêm xanh tốt. Cá nuôi ở ruộng cũng rất mau lớn, chóng được ăn khoảng tháng tám, tháng chí n là có thể thu hoạch được" [29,58 - 59].

Lúa - cá - con người luôn gắn bó với nhau. Cá là một thành tố tạo nên cấu trúc bữa ăn truyền thống của nhiề u dân tộ c thiể u số trong đó có người Tày Nù:ng

Bữa cơm = cơm nếp + cá + rau

Ở nhà sàn , ăn cơm nếp với khúc cá trắng là bữa ăn lý tưởng của người Tày Nùng xưa. Nguồn lợi do đánh bắt thủy sản mang lại có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với người miền núi, vì thế người Tày Nùng đã có câu: "Ba ngày đánh cá thì cả ba ngày ăn cá đến xước lợi" (Slăm vằn tức pja kin ngược trạo). Người Tày Nùng còn có tục đánh cá vào dịp thanh minh để có cá tảo mộ. Trong lễ cơm mới thường phải có thức ăn bằng thủy sản, trong mo cơm mới ở Hà Giang có nói đến "30 món ăn trên cạn, 60 món ăn dưới nước" [29,105].

Mặc dù, đánh cá có vai trò quan trọng trong lao động xã hội của hai dân tộc Tày Nùng, nhưng không có một bộ phận cư dân nào chuyên sống về nghề cá, mà ở đây trồng trọt - chăn nuôi gia súc, gia cầm - chài cá kết hợp thành một cấu trúc kinh tế để tạo ra cái ăn nuôi sống con người. Theo chúng tôi, đây cũng là cấu trúc chung cho các tộc người làm nghề nông sống trong các thung lũng và trên triền các dòng sông, suối miền núi.

2.1.3. Hình ảnh thực vật

Cùng với sự đông đúc, chật chội của thế giới động vật, thế giới thực vật trong ca dao - dân ca Tày Nùng cũng hiện lên rất đậm hương - sắc - màu. Bao


gồm 147 loài hoa, quả, cỏ, cây, dây rừng... với tổng số lần xuất hiện của toàn nhóm là 886 lần. Sau đây là những hình ảnh tiêu biểu:


Bảng khảo sát số 3 - Hình ảnh thực vật


Hình ảnh

Tư liệu

A1

A2

A3

Tổng số

Hoa

168

78

38

284

Cây

86

40

24

150

Trầu cau

24

68

30

122

Lúa mạ

48

10

10

68

28

12

12

52

Quả

33

13

4

50

Rau

28

10

6

44

Cây gỗ

24

4

12

40

Cỏ

18

6

9

33

Dây rừng

32

-

-

32

Củ

19

4

-

23

Trúc mai

18

-

3

21

Cây đa

12

2

-

14

Cây ngón

12

-

-

12

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

Khảo sát ý nghĩa hình ảnh trong ca dao - dân ca Tày - Nùng - 7


Trong đó theo thống kê chi tiết, các hình ảnh hoa, quả, cỏ, cây, củ được thể hiện trong các lời ca với đầy đủ chủng loại phong phú của từng loài như: Loài hoa gồm hoa mơ, hoa mận, hoa sói, hoa ngâu, hoa phón, hoa màng tang, hoa khả o quang , hoa ke tóm, hoa vặc viền , hoa mạ , hoa mua ...mộ t thế giớ i hoa rự c rỡ sắ c mà u và hương thơm nở suố t bố n mù a:

Khảo quang thơm ngá t thá ng hai Tháng ba hoa mạ rủ ai gieo mùa

Tháng năm đua nở hoa mua

Gặ p khi thá ng sá u lú a đua xanh đồ ng Tháng bảy nương vả i trắ ng bông


Hoa đà o tháng chạp nở cùng cành cao Mộ t vù ng tươi thắ m cành đào

Lậ p xuân không bó ng ong nà o tì m hoa Tháng giêng hoa nhó t, lệ chi

Loại quả có quả bí , quả bầu, quả mác hủ (sách thuốc gọi là quả phúc bồ n tử ), quả mít, quả chanh, quả đào tiên, quả sung, quả nhùng, quả mận...

Loài cây có cây tỳ, cây mai, cây kham, cây khế , cây chuố i , cây nhãn, cây nhừ , cây liề ng, cây cọ , cây vả, cây hồi, cây quế...

Cây gỗ có rồ m, rào, sao, khẻ, nghiế n, vác, thông, mộ c hương, trám thơm...

Các loại rau như rau tèng , rau muống, rau chắm, rau piêu, rau dạn, cải làn, cải ngồng, diế p cá ...

Dây rừ ng có dây chấ m , dây thương, dây po, dây gầ n, dây sắ n,dây tắ m, dây cá t, dây thú a…

Lá có các loại như: lá dong, lá chuối, lá ngón, lá han lình… Các loại hạt có: hạt vừng, hạt đậu, hạt vải, hạt thóc…

Các loại cỏ có: cỏ rọn, cỏ hán, cỏ hèn, cỏ se, cỏ tranh, cỏ gianh…

Các loại củ có: củ khoai sọ, khoai lang, củ gừng, củ ghèng, củ giềng… Đây là những loài thực vật quen thuộc ở vùng Việt Bắc, điều này đã thể

hiện tính muôn màu sắc của đặc trưng thế giới thực vật vùng đất nơi đây.

Dựa vào kết quả phân loại trên chúng tôi nhận thấy thế giới thực vật có số lượng lớn các hình ảnh tham gia và số lần xuất hiện của các hình ảnh cũng thể hiện ở mức cao: Hoa (284 lần), cây (150 lần), trầu cau (122 lần), lúa mạ (68 lần), lá (52 lần), quả (50 lần), rau (44 lần)...

Kết quả khảo sát cho thấy, hoa là hình ảnh nổi bật với số lần xuất hiện tới 284 lần. Theo bảng phân loại của hệ thống thực vật thì thực vật được chia làm 24 lớp, trong đó có 23 lớp thuộc thực vật cỏ hoa, còn lớp thứ 24 gồm các thực vật không có hoa như: Tảo, nấm, dương xỉ. Như vậy, xét về mặt thực vật

Xem tất cả 149 trang.

Ngày đăng: 20/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí