Khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch sinh thái huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận theo hướng bền vững - 2

liên quan đến môi trường và phát triển, đề ra chiến lược hướng tới các hoạt động mang tính bền vững hơn.

Từ đầu những năm 1990, nhiều nhà nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của HĐDL, đảm bảo sự phát triển lâu dài đã được tiến hành. Một số LHDL quan tâm đến môi trường đã bắt đầu xuất hiện như : “Du lịch sinh thái”, “Du lịch khám phá”, “Du lịch gắn với thiên nhiên”, “Du lịch thay thế”, “Du lịch mạo hiểm”,… đã góp phần nâng cao hình ảnh về một LHDL có trách nhiệm, đảm bảo sự PTBV.

Năm 1996, hưởng ứng chương trình hành động của Hội nghị Earth Sumit, ngành du lịch toàn cầu đại diện bởi 3 tổ chức quốc tế gồm Hội đồng lữ hành du lịch thế giới (WTTC), Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng Trái Đất (Earth council), đã ứng dụng những nguyên tắc của Agenda 21 vào du lịch, phối hợp xây dựng một chương trình hành động với tên gọi “Chương trình Nghị sự 21 về du lịch hướng tới PTBV về môi trường”. Chương trình này nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp hành động giữa các Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ và ngành du lịch trong việc xây dựng chiến lược du lịch và nêu bật những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch bền vững.

4.2. Ở Việt Nam

Trước xu thế chung của thế giới về loại hình DLST mang tính bền vững, trong những năm gần đây hàng loạt các cuộc hội thảo đã được tổ chức tại Việt Nam như: “Hội thảo quốc tế về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” do Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với quỹ Hains Seidel (Cộng hoà liên bang Đức) tổ chức tại Huế (tháng 5/1997); “Hội thảo về DLST với PTBV ở Việt Nam” tại Hà Nội, tháng 4/1998; “Hội thảo phát triển DLST Tây Đô” tại tỉnh Hậu Giang, tháng 3/2001; “Hội thảo giới thiệu sản phẩm DLST cộng đồng vùng ven biển Việt Nam”, tại Tp Nha Trang, tháng 11/2009…và các công trình nghiên cứu về DLST đã ra đời như: Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam” của Phạm Trung Lương (2002); “Du lịch sinh thái” của Lê Huy Bá (2004); “Quy hoạch không gian để bảo tồn thiên nhiên ở khu BTTN Vũ Quang, một phương pháp tiếp cận sinh thái” trong Dự án bảo tồn khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang của IUCN, WWF;…

4.3. Tại Bình Thuận

Với tiềm năng DLST phong phú và đa dạng cũng đã và đang hoà nhập cùng với xu thế phát triển du lịch chung của cả nước và thế giới, hướng đến sự phát triển DLBV, tăng cường đầu tư phát triển LHDL mới có khả năng góp phần quan trọng vào phát triển DLBV, đó là DLST. Song do đây là một LHDL còn mới mẻ đối với cả nước nên nhận thức về LHDL này còn nhiều hạn chế và việc khai thác LHDL này như thế nào để đạt hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn.

Năm 2009, có chuyên đề nghiên cứu sinh của tác giả Đinh Kiệm “Định hướng và một số giải pháp phát triển DLST ở Bình Thuận và vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020” và năm 2010 có “Đề án phát triển DLST tỉnh Bình Thuận” do Viện chiến lược phát triển du lịch phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Bình Thuận đã được thực hiện. Đây chính là những nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý giá làm cơ sở khoa học cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của mình.

5. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu‌


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

5.1. Những quan điểm chủ yếu

5.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp

Khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch sinh thái huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận theo hướng bền vững - 2

Nghiên cứu DLST không thể tách rời khỏi hệ thống du lịch cũng như hệ thống KT- XH của địa phương và cả nước. Quan điểm hệ thống tổng hợp giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của toàn bộ hệ thống du lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ trong hệ thống đó. DLST Hàm Thuận Nam được nghiên cứu trong mối quan hệ với kinh tế- xã hội- môi trường của địa phương, của Bình Thuận và của cả nước.

5.1.2. Quan điểm lãnh thổ

Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên cứu du lịch bền vững của huyện Hàm Thuận Nam không thể tách rời với hiện trạng và xu hướng du lịch của Bình Thuận, của Việt Nam. Quá trình phát triển DLSTBV của Hàm Thuận Nam là một phần trong quá trình phát triển DLSTBV của Bình Thuận và của cả nước.

5.1.3. Quan điểm môi trường – sinh thái

Hơn bất kì LHDL nào, DLST có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường sinh thái. DLST chỉ có thể PTBV khi không làm tổn hại đến môi trường và các HST tự nhiên, nhân văn.

5.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Mọi sự vật, hiện tượng đều có sự vận động và biến đổi không ngừng. Trong nghiên cứu DLST cần xem xét quá khứ, đánh giá hiện trạng để có thể đưa ra những dự báo hoặc định hướng phát triển trong tương lai. Quan điểm này được tác giả quán triệt và vận dụng xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin

Thu thập những tài liệu có liên quan ở các nguồn tin cậy, chọn lọc, sắp xếp và xử lí tài liệu một cách có hệ thống, khoa học.

5.2.2. Phương pháp thống kê

Với các số liệu đáng tin cậy thu thập được, tác giả tiến hành phân loại, thống kê theo trình tự thời gian để tiện cho việc so sánh, tính tốc độ tăng trưởng, lập ra các bảng biểu, phân tích phục vụ cho nội dung của đề tài.

5.2.3. Phương pháp thực địa và phỏng vấn

Đây là phương pháp có tầm quan trọng đặc biệt nhằm trải nghiệm, thu thập thêm thông tin, kiểm nghiệm, so sánh ý thuyết với thực tế làm cơ sở đưa ra những kết luận chính xác hơn. Bên cạnh đó, kết hợp phỏng vấn các chuyên gia, nhà quản lý du lịch tại các điểm du lịch cụ thể. Đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá.

5.2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ

Đây là phương pháp đặc trưng và quan trọng của địa lý. Thông qua bản đồ, biểu đồ sẽ khái quát hóa, trực quan hóa các đối tượng địa lý, các số liệu cần diễn đạt.

Phương pháp bản đồ, biểu đồ trong đề tài này được tác giả dùng các phần mềm như: Excel, Mapinfo để xử lý, tạo ra

5.2.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh

Từ các tư liệu, số liệu, ý kiến chuyên gia, trải nghiệm thực tế… tác giả đã tiến hành xử lí, phân tích, tổng hợp và so sánh tiềm năng, hoạt động của du lịch Hàm Thuận Nam theo thời gian; so sánh các điểm du lịch trong địa bàng Hàm Thuận Nam, giữa du lịch Hàm Thuận Nam với các khu vực du lịch khác trong tỉnh, từ đó khái quát thành nội dung hoàn chỉnh.

5.2.6. Phương pháp phân tích ma trận SWOT:

Ma trận SWOT là ma trận kết hợp giữa phân tích và dự báo bên trong với bên ngoài. Trên cơ sở phân tích tài nguyên và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái huyện Hàm Thuận Nam, tác giả đưa ra được những điểm mạnh, điểm yếu, đồng thời dự báo những thời cơ và thách thức đối với hoạt động DLST của huyện Hàm Thuận Nam

6. Cấu trúc luận văn‌


Đề tài gồm có 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận Phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển bền vững du lịch sinh thái

Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển bền vững du lịch sinh thái ở huyện Hàm Thuận Nam- tỉnh Bình Thuận

Chương 3: Những định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch sinh thái huyện Hàm Thuận Nam- tỉnh Bình Thuận

Ngoài ra, đề tài còn có danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG‌

1.1. Một số khái niệm‌


1.1.1. Du lịch‌


Thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được Latinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh). Theo Robert Lanquar từ tourist lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800. Trong tiếng Việt, thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng Hán. Du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi tourism là du lãm với nghĩa là đi chơi để nâng cao nhận thức.

Thuở ban đầu, du lịch chỉ được hiểu đơn thuần là các chuyến đi xa khỏi nơi cư trú để thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Sau này, các nhà truyền giáo, các quan chức nhà nước, các nhà thể thao, những người hâm mộ… cũng có được những kết quả ấy sau các chuyến đi vì mục đích khác như tôn giáo, thể thao, công tác, buôn bán… Vì lẽ đó, khái niệm du lịch được hiểu rộng hơn.

Sau chiến tranh thế giới thứ II kinh tế thế giới phục hồi và phát triển, chất lượng cuộc sống ở nhiều nước được cải thiện, trình độ văn hóa của mọi người được nâng cao, nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Du lịch được xem như là một cơ hội kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch và tiềm kiếm lợi nhuận.

Theo Ausher thì Du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân. Quan điểm này khá đơn giản, chỉ nêu lên được hiện tượng đi du lịch với mục đích tham quan, giải trí, ngắm cảnh…

Azar người Thụy Sĩ nhận thấy Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác nếu không gắn với sự thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Quan điểm này tiến bộ hơn quan điểm của Ausher ở chỗ xác định việc đi du lịch không gắn liền với việc cư trú và làm việc kiếm thu nhập tại nước đến.

Theo các nhà kinh tế du lịch thuộc trường Đại Học Kinh tế Praha “Coi tất cả các hoạt động, tổ chức, kĩ thuật và phục vụ các cuộc hành trình và lưu trú của con người ngoài nơi cư trú với nhiều mục đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng người thân là Du lịch”.

Người Trung Quốc cho rằng du lịch bao gồm 5 yếu tố là thực, trú, hành, lạc, y. Đi du lịch là được nếm những món ăn ngon, ở trong những căn phòng tiện nghi, đi lại trên các phương tiện sang trọng, được vui chơi, giải trí vui vẻ, có điều kiện mua sắm hàng hóa, quần áo. Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì: “Hoạt động du lịch là tổng hòa hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện”.

Tại hội nghị Liên hiệp Quốc họp tại Roma – Italia (21/8 – 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các hành trình và lưu trú”.

Theo tổ chức Du lịch thế giới “du lịch là hoạt động của con người đến và ở tại những nơi ngoài môi trường hằng ngày của họ trong một thời gian, nhất định với mục đích giải trí, công vụ hay những mục đích khác”.

Theo từ điển bách khoa toàn thư của Việt Nam:

- Nghĩa thứ nhất: du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật.

- Nghĩa thứ hai: du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và du lịch tại chỗ.

Khái niệm rộng nhất và đầy đủ hơn cả, có lẽ được thể hiện trong Tuyên bố Ô-sa-ka của hội nghị Bộ trưởng Du lịch thế giới: “Du lịch là con đẻ của hòa bình, là phương tiện củng cố hòa bình, là phương tiện cân bằng cán cân thanh toán quốc tế”.

- Du lịch có thể được hiểu là: Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức từ thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ cho các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng,

- Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trinh di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời tong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.

Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Cho đến nay không ít người, thậm chí ngay cả nhân viên, cán bộ đang làm việc trong nghành du lịch chỉ cho rằng du lịch là một ngành kinh tế. Do đó mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh tế. Điều đó cũng có thể đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh. Trong khi đó, du lịch còn là một hiện tượng xã hội, nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết… Chính vì vậy toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực văn hóa khác.

1.1.2. Du lịch sinh thái‌


“Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm rộng, được hiểu khác nhau từ các góc độ khác nhau. Đối với một số người, “DLST” đơn giản được hiểu là sự kết hợp ý nghĩa của 2 từ ghép “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc. Song đứng ở góc nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm DLST là du lịch thiên nhiên, là khái niệm mà trong thực tế đã xuất hiện từ đầu những năm 1980 (Ashton, 1993). Với khái niệm này, mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ núi,… đều được hiểu là DLST.

Những năm cuối thế kỷ XX, với sự phát triển rầm rộ của ngành công nghiệp du lịch trên toàn thế giới đã bắt đầu thể hiện một số các mặt bất cập, đặc biệt trong vấn đề mối quan hệ giữa du lịch với môi trường thiên nhiên ngày càng suy giảm. Để hạn chế vấn đề này, những năm cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX, đã xuất hiện một số khái niệm về du lịch kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng du lịch khá mới mẻ như: “Du lịch dựa vào thiên nhiên”, “Du lịch thân thiện với môi trường”, “Du lịch xanh”, “Du lịch có trách nhiệm”, “Du lịch dựa vào cộng đồng”. Đỉnh cao là sự xuất hiện của khái niệm “Du lịch sinh thái” vào năm 1991. Khi đó, DLST được xác định là “LHDL diễn ra trong các vùng có HST tự nhiên còn bảo tồn khá tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hóa hiện hữu”.

Ở Việt Nam, khái niệm về DLST cũng đươc đưa vào trong văn bản pháp luật Nhà nước. Trong Khoản 19, Điều 4, Chương I của Luật du lịch Việt Nam năm 2005 đã xác định: “DLST là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm PTBV”. Đây cũng chính là khái niệm về DLST mà tác giả sử dụng trong bài nghiên cứu này.

Nhìn chung, có thể xác định nhiệm vụ phát triển DLST theo các tiêu chí cơ bản sau:

- Phát triển DLST thể hiện sự liên hệ khăng khít với môi trường tự nhiên và bản sắc văn hóa của bản địa.

- Phát triển DLST gắn với sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng. Góp phần PTBV tài nguyên thiên nhiên. Đáp ứng yêu cầu hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch trong tương lai.

- Phát triển DLST là động lực thức đẩy sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương, dựa trên cơ sở lợi ích chung.

1.1.3. Tiềm năng phát triển du lịch‌


Tiềm năng phát triển du lịch bao gồm tất cả những tài nguyên tự nhiên và kinh tế - xã hội đã, đang hoặc sẽ được con người khai thác để phát triển du lịch. Có thể phân tiềm năng phát triển du lịch thành hai nhóm: nhóm tài nguyên du lịch tự nhiên và nhóm tài nguyên du lịch nhân văn.

Nhóm tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên đã và đang hoặc sẽ được sử dụng phục vụ mục đích phát triển du lịch.

Nhóm tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, làng nghề truyền thống, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác đã và đang hoặc sẽ được sử dụng phục vụ mục đích phát triển du lịch.

1.1.4. Tài nguyên du lịch sinh thái‌


Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.

Tài nguyên được phân loại thành tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội.

Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn với khái niệm du lịch.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/04/2023