quá trình ra quyết định của DN, giúp DN làm hài lòng khách hàng). Trong khi, các DN lữ hành có đối tượng khách hàng đa dạng, phong phú, số lượng khách hàng lớn, nên rất khó để xác định/đo lường được các tiêu chí về mức độ mạnh, yếu của “nguồn lực khách hàng” một cách rõ ràng. Do đó, việc xem xét ảnh hưởng của yếu tố này đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành Việt nam là không khả thi, nên NCS loại yếu tố này ra khỏi mô hình thực nghiệm.
+ Yếu tố “Các kỹ thuật sản xuất tiên tiến – ATM, kỹ thuật sản xuất toàn diện
– TQM, kỹ thuật quản trị JIT” cũng bị loại ra khỏi mô hình nghiên cứu thực nghiệm. Vì: Các yếu tố này được chứng minh là những yếu tố ngẫu nhiên, có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT trong các DN sản xuất có sử dụng công nghệ cao như DN thuộc ngành dược, hóa chất, … (Abdel và Luther, 2008), không phù hợp với các DN lữ hành thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ.
Dựa trên tổng quan nghiên cứu, các lý thuyết nền tảng, một số tiêu chí lựa chọn biến và kết quả phỏng vấn sâu, NCS xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của các DN lữ hành tại Việt nam như sau:
Thứ nhất: Yếu tố “Quy mô của DN”
Quy mô DN là một yếu tố quan trọng được cho là có sự tác động đến cả cấu trúc lẫn các sự sắp xếp về mặt kiểm soát trong DN. Thật vậy, Ahmada và cộng sự (2016) đã khẳng định lại kết quả nghiên cứu của Blau (1970) lập luận rằng quy mô mở rộng của các DN dẫn đến việc phân chia trách nhiệm ngày càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát, mở rộng phạm vi kiểm soát của nhà quản trị cấp cao, đồng thời, tạo ra sự khác biệt về cấu trúc và các vấn đề phối hợp đòi hỏi sự chú ý của giám sát. Một DN lớn hơn thì có hệ thống phức tạp hơn cũng như phải đối diện với nhiều vấn đề khó khăn hơn, do đó DN lớn cần vận dụng KTQT một cách tổng thể và phức tạp hơn (Abdel và Luther, 2008; Ahmad, 2012). Trong đó, xét về khía cạnh cụ thể áp dụng KTQT để đánh giá HQHĐ, Merchant (1984) cũng cho rằng DN càng lớn thì khả năng ban lãnh đạo sẽ muốn các hệ thống thông tin chính thức hơn là không chính thức; Các công ty lớn có xu hướng sử dụng nhiều hơn các biện pháp kiểm soát hành chính chính thức và áp dụng hệ thống đánh giá HQHĐ đương đại thường xuyên hơn các DN nhỏ. Và các nghiên cứu của Hoque và James (2000), Chenhall (2003) cũng đã chứng minh một cách nhất quán rằng quy mô của một DN có ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng hệ thống đánh giá HQHĐ trong DN của họ. Quy mô DN thường được đo lường thông qua số lượng nhân viên, doanh thu hàng năm, tổng
nguồn vốn hay số lượng sản phẩm/dịch vụ (Abdel và Luther, 2008; Ahmad, 2012; Trần Ngọc Hùng, 2016; Lê Thị Tú Oanh và cộng sự, 2019). Theo đó khi quy mô DN tăng lên thì DN có xu hướng gia tăng, mở rộng việc áp dụng các công cụ kỹ thuật KTQT. Điều này được lý giải là một DN có quy mô lớn thì thông thường có nguồn lực tài chính tốt hơn để trang trải chi phí cho việc áp dụng KTQT trong DN, và cũng để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ cho việc ra quyết định của nhà quản lý DN, giúp DN ứng phó tốt với những khó khăn mà môi trường kinh doanh đặt ra. Do đó, giả thuyết H1 được đặt ra là:
H1: Quy mô DN có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN.
Có thể bạn quan tâm!
- Thu Thập Dữ Liệu Phục Vụ Đánh Giá Hiệu Quả Hoạt Động
- Nội Dung Công Việc Cung Cấp Thông Tin Về Hqhđ Của Dn
- Lý Thuyết Khuếch Tán Sự Đổi Mới (Diffusion Of Innovation Theory)
- Mô Hình Nghiên Cứu Thực Nghiệm Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Thực Hiện Ktqt Để Đánh Giá Hqhđ Của Các Dn Lữ Hành Việt Nam
- Kết Quả Nghiên Cứu Về Thực Trạng Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Thực Hiện Kế Toán Quản Trị Để Đánh Giá Hiệu Quả Hoạt Động Của Các
- Thống Kê Theo Quy Mô Dn Về Số Lao Động Và Doanh Thu
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Yếu tố này được đo lường bởi: Số lao động của DN; Doanh thu hàng năm; Số lượng sản phẩm/dịch vụ (Abdel và Luther, 2008; Ahmad, 2012; Trần Ngọc Hùng, 2016; Lê Thị Tú Oanh và cộng sự, 2019).
Thứ hai: Yếu tố “Nhận thức của nhà quản lý cấp cao về tính hữu ích của việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành”
Wiersman (2009) đã nhận ra một vài yếu tố có thể thúc đẩy nhà quản trị áp dụng các kỹ thuật KTQT hiện đại. Những yếu tố đó là khả năng tiếp thu của nhà quản lý về một hình thức cung cấp thông tin mới, những công cụ quản lý mới và phong cách đánh giá của các nhà quản lý. Khi nhà quản lý DN nhận thức đầy đủ các lợi ích của KTQT, trong đó có nhận thức rằng KTQT có thể thực hiện đánh giá HQHĐ của DN thông qua việc thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu, để cung cấp thông tin cho nhà quản lý DN về HQHĐ tài chính và phi tài chính, họ sẽ yêu cầu nhân viên kế toán thực hiện đánh giá HQHĐ của DN một cách toàn diện. Yếu tố này cũng đã được chứng minh là có tác động mạnh mẽ đến việc áp dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt nam thông qua phương pháp phỏng vấn chuyên gia và nghiên cứu định lượng do Trần Ngọc Hùng (2016) thực hiện. Trước hết, các chuyên gia đề xuất đưa yếu tố này để xem xét mức độ tác động của nó đến việc áp dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt nam vì họ lập luận rằng “do bối cảnh kinh tế của Việt nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường thời gian sau này, nên hầu hết các DNNVV chưa làm quen với KTQT mà chỉ tập trung vào KTTC theo các yêu cầu, mệnh lệnh của cơ quan quản lý hơn là nhu cầu quản trị thực tế của DN” (Trần Ngọc Hùng, 2016). Do đó việc áp dụng KTQT khó thành công hoặc thậm chí không thể thực hiện nếu nhà quản lý DN không nhận thức được lợi ích của các kỹ thuật KTQT. Ngược lại, nếu nhà quản lý DN nhận thức được tính hữu ích của việc áp dụng KTQT, họ sẽ phát sinh nhu cầu áp dụng các kỹ thuật KTQT nói chung, kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ
nói riêng vào DN mình, mà không ngần ngại trong việc bỏ chi phí đầu tư vào việc vận dụng KTQT. Do đó, giả thuyết H2 được đặt ra là:
H2: Nhận thức của nhà quản lý cấp cao về tính hữu ích của thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành.
Yếu tố này được đo lường bởi: Nhà quản lý cấp cao có hiểu biết về các các kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ của DN; Nhà quản lý cấp cao đánh giá cao về tính hữu ích của các kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ của DN; Nhà quản lý cấp cao có nhu cầu cao về việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN; Nhà quản lý cấp cao chấp nhận mức chi phí cao trong việc đầu tư chi phí để thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN (Trần Ngọc Hùng, 2016; Vu Manh Chien, Nguyen Thi Thuy, 2016).
Thứ ba: Yếu tố “Cam kết của nhà quản lý cấp cao”
Yếu tố thứ ba được xem là có ảnh hưởng đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN là “Cam kết của nhà quản lý cấp cao”: Vì các nhà quản lý cấp cao có liên quan chặt chẽ đến việc quản lý, điều hành DN nên sự tham gia của họ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá, làm cơ sở cho việc đánh giá HQHĐ. Thật vậy, vai trò của các nhà quản lý trong việc sử dụng các hệ thống đo lường thành quả hoạt động từ lâu đã được nhiều nghiên cứu thừa nhận, như nghiên cứu của Kennerley và Neely (2002), Cheng và cộng sự (2007), Garengo và Bititci (2007); Tung và cộng sự (2011), Ahmada và cộng sự (2016). Kennerley và Neely (2002) đã nghiên cứu thực nghiệm tại các DN điển hình đã thất bại trong thực hiện đổi mới hệ thống đo lường thành quả hoạt động. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại này là do thiếu cam kết của nhà quản lý cấp cao trong DN: Nhà quản lý không dành đủ thời gian tham gia vào các cuộc họp liên quan đến phương án thay đổi hệ thống đo lường thành quả hoạt động; Không đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo sự kết nối dữ liệu từ nhiều bộ phận khác nhau trong DN. Tiếp sau đó, nghiên cứu của Cheng và cộng sự (2007) thực hiện nghiên cứu điển hình và phát hiện thêm rằng các rào cản đối với việc thực hiện các giải pháp liên quan đến sử dụng hệ thống đo lường thành quả hoạt động mới xuất phát từ sự thiếu cam kết và hỗ trợ của quản lý cấp cao vì họ đã quen với phương thức làm việc cũ và thiếu định hướng về chính sách đào tạo thích hợp. Phát hiện này được hỗ trợ bởi Garengo và Bititci (2007), những người đã thông qua kết quả của nghiên cứu điển hình bốn DN đại diện cho 04 ngành nghề và có quy mô khác nhau mà lập luận rằng sự cần thiết của một phong cách quản lý có thẩm quyền để áp dụng thành công các hệ thống đo lường thành quả hoạt động chính thức
trong môi trường DN nhỏ. Nghiên cứu của Tung và cộng sự (2011) thông qua nghiên cứu định lượng, cũng đã tiết lộ rằng sự hỗ trợ của lãnh đạo cao nhất có liên quan đến tính hiệu quả của việc sử dụng hệ thống chỉ số đánh giá. Ahmada và cộng sự (2016) lập luận thêm rằng sự tham gia liên tục của nhà quản lý cấp cao nhất là vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xung đột phát sinh. Gần đây nhất, Võ Văn Nhị và Nguyễn Thị Huyền Trâm (2020) thông qua việc sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng (khảo sát 129 DNNVV trong lĩnh vực sản xuất ở Việt nam) cũng đã chỉ ra rằng “Sự tham gia của chủ DN có ảnh hưởng đến áp dụng các kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ trong các DNNVV ở Việt nam”. Như vậy, các nghiên cứu này đều cho rằng sự cam kết, tham gia của nhà quản lý cấp cao là những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến việc thiết kế, thực hiện và sử dụng có hiệu quả hệ thống đo lường thành quả hoạt động; hay đến việc áp dụng các kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ trong các DN. Do đó, giả thuyết H3 được đưa ra là:
H3: Cam kết của nhà quản lý cấp cao có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ trong các DN lữ hành Việt nam.
Yếu tố này được đo lường bởi: Nhà quản lý cấp cao cung cấp đầy đủ nguồn lực cho việc tổ chức KTQT để đánh giá HQHĐ của DN; Nhà quản lý cấp cao truyền đạt hiệu quả sự hỗ trợ của mình cho việc tổ chức KTQT để đánh giá HQHĐ của DN; Nhà quản lý cấp cao thực hiện quyền hạn của mình trong việc hỗ trợ tổ chức KTQT để đánh giá HQHĐ của DN (Tung và cộng sự, 2011).
Thứ tư: Yếu tố “Chiến lược kinh doanh của DN”
Chiến lược kinh doanh của DN được xem là một yếu tố ngẫu nhiên quan trọng có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT trong DN, đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nhiều học giả cho rằng sự phù hợp giữa chiến lược và KTQT là điều cần thiết để đạt được thành quả (Govindarajan & Gupta, 1985; Simons, 1987). Kaplan và Norton (1996) cũng hỗ trợ quan điểm này khi chứng minh rằng hệ thống đo lường thành quả hoạt động phù hợp sẽ khuyến khích các hành động phù hợp với chiến lược kinh doanh của DN. Tiếp sau đó Langfield-Smith (1997) cũng cho rằng hệ thống KTQT được điều chỉnh để hỗ trợ chiến lược có thể dẫn đến lợi thế cạnh tranh và HQHĐ vượt trội. Chenhall và Langfield-Smith (1998b) nhận thấy rằng các công ty chiến lược khác biệt hóa sản phẩm có HQHĐ cao gắn liền với các kỹ thuật quản lý của hệ thống quản lý chất lượng và sử dụng các kỹ thuật KTQT hiện đại như chi phí dựa trên hoạt động (ABC), điểm chuẩn, ... Baines và LangfieldSmith (2003) trong nghiên cứu của họ về nguồn gốc và sự thay đổi của KTQT, đã tìm thấy mối quan hệ đáng kể giữa
những thay đổi trong chiến lược kinh doanh với việc áp dụng các kỹ thuật KTQT. Ma và Tayles (2009) trong nghiên cứu điển hình của họ cũng đã minh họa một sự thay đổi KTQT thành công trong bối cảnh DN có chiến lược kinh doanh rõ ràng. Verbeeten (2010) cũng cho rằng các chiến lược của nhà phân tích và khách hàng tiềm năng (prospecter and analyzer strategies) dường như có liên quan tích cực với những thay đổi lớn trong hệ thống KTQT (Tuan Mat, 2010). Nghiên cứu thực nghiệm của Tuan Mat (2010) được tiến hành trên các DN sản xuất ở Malaysia, với 800 phiếu gửi đi và thu được 212 phiếu trả lời đầy đủ, thông qua việc sử dụng mô hình SEM để phân tích dữ liệu, kết quả nghiên cứu đã khẳng định lại mối quan hệ giữa việc thay đổi chiến lược kinh doanh đến việc sử dụng các kỹ thuật KTQT (Tuan Mat, 2010). Gần đây nhất, mối quan hệ giữa chiến lược kinh doanh của DN và việc áp dụng các kỹ thuật KTQT được khẳng định bởi Trần Ngọc Hùng (2016) khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm các DNNVV ở Việt nam. Do đó, giả thuyết H4 được đưa ra là:
H4: Chiến lược kinh doanh của DN có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành Việt nam.
Yếu tố chiến lược kinh doanh được đo lường thông qua: Chiến lược giới thiệu sản phẩm mới; Chiến lược tùy chỉnh sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng; Chiến lược mở rộng thị trường; Chiến lược tăng sự hài lòng của khách hàng (Baines và Langfield Smith, 2003; Tuan Mat, 2010; Trần Ngọc Hùng, 2016; Và kết quả phỏng vấn sâu).
Thứ năm: Yếu tố “Văn hóa DN”
Văn hóa DN là một biến ngẫu nhiên đã được nhiều học giả xem xét nó khi nghiên cứu sự tác động của các yếu tố đến việc áp dụng KTQT (bao gồm cả kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ). Văn hóa DN có thể cản trở hoặc củng cố việc sử dụng bất kỳ loại kỹ thuật quản lý nào, chẳng hạn như kỹ thuật KTQT (Erserim, 2012). Và nghiên cứu của Erserim (2012) tại các DN Thổ Nhĩ Kỳ đã chứng minh được rằng văn hóa tổ chức – được đặc trưng bởi văn hóa hỗ trợ, văn hóa đổi mới, văn hóa dựa trên quy tắc và văn hóa định hướng mục tiêu, có ảnh hưởng tích cực đến việc vận dụng các kỹ thuật KTQT trong DN. Erserim (2012) đã kế thừa các thước đo đại diện cho biến văn hóa tổ chức từ nghiên cứu của Van Muijen và các nhà nghiên cứu quốc tế từ 12 quốc gia (1999). Sau đó, Trần Ngọc Hùng (2016) tiếp tục kế thừa các biến quan sát này của yếu tố văn hóa tổ chức để xem xét sự ảnh hưởng của nó đến việc áp dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt nam; Kết quả phỏng vấn sâu các DNNVV ở Việt nam đã chi tiết hơn về 2 biến của văn hóa tổ chức là: Văn hóa hỗ trợ thể hiện qua cách hỗ trợ qua lại lẫn
nhau giữa các phòng ban, bộ phận trong DN, sự hỗ trợ từ cấp trên đối với cấp dưới, hoặc cũng có thể là hỗ trợ giữa các đồng nghiệp với nhau trong công việc; Văn hóa quản lý theo mục tiêu thường thể hiện qua sự đồng thuận về mục tiêu chung của toàn thể DN hay sự đồng thuận của các cá nhân về mục tiêu chung của từng phòng ban, bộ phận … Ngoài ra nó cũng thể hiện qua sự tôn trọng và tuân thủ các mục tiêu, quy định trong DN; Kết quả phân tích dữ liệu khảo sát diện rộng các DNNVV ở Việt nam cũng ủng hộ lập luận của Erserim (2012) vì khi DN đánh giá yếu tố “Văn hoá DN” tăng thêm 1 điểm thì mức độ khả thi khi áp dụng KTQT vào DNNVV tăng thêm 0,892 điểm (tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,892). Kết quả này một lần nữa được khẳng định lại trong nghiên cứu của Lê Thị Tú Oanh và cộng sự (2020) khi xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố đến việc áp dụng KTQT (trong đó có áp dụng kỹ thuật KTQT để đánh giá HQHĐ). Do đó, giả thuyết thứ 5 được đặt ra là:
H5: Mức độ triển khai Văn hóa DN có ảnh hưởng thuận chiều đến mức độ thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành Việt nam.
Trong đó, yếu tố văn hóa DN được đo lường thông qua: Xây dựng quy chế tài chính, nhân sự, thưởng, phạt, bổ nhiệm, tuyển dụng; Thiết lập quy tắc ứng xử trong DN; Hỗ trợ của nhà quản lý đối với nhân viên; Sự hợp tác của nhân viên; Sự nhất trí về mục tiêu phát triển; Xây dựng hình ảnh bên trong và bên ngoài công ty (Erserim, 2012; Trần Ngọc Hùng, 2016; Lê Thị Tú Oanh và cộng sự, 2020)
Thứ 6: Yếu tố “Trình độ nhân viên kế toán”
Trong các DN nhỏ, sự tồn tại của nhân viên kế toán nội bộ có trình độ có thể là một yếu tố quan trọng làm cơ sở cho việc áp dụng KTQT (Ahmad, 2012). Halma và Laats (2002); Al-Omiri (2003); Ismail và King (2007) cho rằng sự hiện diện của các nhân viên kế toán có năng lực có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ tiếp nhận các kỹ thuật KTQT. Haldma và Laats (2002) cho rằng sự thiếu hụt nhân viên kế toán có trình độ có thể là rào cản đối với việc áp dụng rộng rãi các kỹ thuật KTQT hiện đại. Trong bối cảnh các DNNVV, cả Collis và Jarvis (2002), McChlery và cộng sự (2004) đề xuất rằng các kế toán viên có đủ năng lực sẽ giúp phát triển các kỹ thuật KTQT ở các DNNVV. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Ahmad (2012) tại các DNNVV ở Malaysia lại không ủng hộ lập luận của ông, trình độ nhân viên kế toán không có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT. Bên cạnh đó, dựa trên lập luận rằng: Nguồn lực nhân sự luôn đóng một vai trò quan trọng đối với sự thành bại của các DN nói chung và DNNVV Việt Nam nói riêng; Do đó áp dụng KTQT vào DNNVV tất nhiên cũng sẽ chịu ảnh hưởng bởi nguồn lực nhân sự, mà cụ thể là trình độ chuyên môn của nhân
viên kế toán - Đây là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai và áp dụng KTQT, nên nếu trình độ chuyên môn về KTQT không đáp ứng yêu cầu sẽ khiến cho việc vận dụng KTQT trong DNNVV không thể thực hiện được, hoặc thực hiện nhưng không hiệu quả; Trần Ngọc Hùng (2016) đã đưa biến này vào khi nghiên cứu sự tác động của nó đến viêc áp dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt nam và kết quả phỏng vấn sâu các chuyên gia cũng hoàn toàn ủng hộ lập luận trên. Xong, kết quả nghiên cứu định lượng lại không tìm thấy mối quan hệ giữa trình độ nhân viên kế toán với việc áp dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt nam. Có thể, nguyên nhân dẫn đến kết quả này là do Trần Ngọc Hùng (2016) chỉ đo lường “trình độ nhân viên kế toán” thông qua các bằng cấp (đại học, cao đẳng, trung cấp và các chứng chỉ kế toán), chưa xem xét đến các yếu tố khác như hiểu biết về đặc điểm kinh doanh của DN, kỹ năng công nghệ thông tin, có chuyên môn tài chính và KTQT và khả năng sáng tạo của nhân viên kế toán – các yếu tố này được Feeney (2007) tổng hợp các nghiên cứu trước đó về các khía cạnh của trình độ nhân viên kế toán. Vì vậy, trong nghiên cứu này, NCS đưa ra giả thuyết H6 để kiểm tra lại mối quan hệ sau:
H6: Trình độ nhân viên kế toán trong DN có ảnh hưởng thuận chiều đến mức độ thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành Việt nam.
Yếu tố “Trình độ nhân viên kế toán” được đo lường thông qua: Bằng cấp của nhân viên kế toán; Hiểu biết về đặc điểm kinh doanh của DN; Kỹ năng công nghệ thông tin; Có chuyên môn tài chính và KTQT; Khả năng sáng tạo của nhân viên kế toán (Feeney, 2007; Trần Ngọc Hùng, 2016).
Thứ bảy: Yếu tố “Hệ thống công nghệ thông tin”
Hệ thống công nghệ thông tin được xem là có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT trong các DN. Nzomo (2013) đã chỉ ra 6 yếu tố cấu thành nên một hệ thống kế toán, đó là: Con người – người dùng hệ thống; Quy trình thu thập và xử lý dữ liệu; Dữ liệu – là những thông tin liên quan đến thực tiễn kinh doanh của DN; Phần mềm – là các chương trình máy tính được dùng để xử lý dữ liệu; Cơ sở hạ tầng CNTT – là những phần cứng được sử dụng để vận hành hệ thống; Kiểm soát nội bộ - là các biện pháp bảo mật để bảo vệ dữ liệu nhạy cảm. Hệ thống kế toán có nhiệm vụ xử lý các số liệu và con số lớn, tính toán hàng loạt, nhưng hệ thống CNTT đã giúp việc duy trì hệ thống dễ dàng hơn. Sự kết hợp giữa các hoạt động kế toán và các nguồn lực CNTT tạo thành hệ thống thông tin kế toán và hệ thống này đang được sử dụng thường xuyên vì sự phát triển của CNTT trong thời gian gần đây (Taiwo, 2016). Garengo và Bitici (2007) khi thực hiện nghiên cứu xem xét các yếu tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến hệ thống đo lường
thành quả hoạt động tại các DNNVV ở Scotland đã tổng hợp kết quả của các nghiên cứu trước đây về yếu tố “Hệ thống CNTT” như sau: Hệ thống đo lường thành quả hoạt động bị ảnh hưởng sự sẵn có của các hệ thống CNTT linh hoạt cho phép thu thập, phân tích và báo cáo dữ liệu thích hợp (Bititci và cộng sự, 2000; Kennerley và Neely, 2002; Neely, 1999); Cần có cơ sở hạ tầng CNTT đầy đủ để hỗ trợ các quá trình thu thập, phân tích, giải thích và báo cáo dữ liệu để thực hiện hệ thống đo lường thành quả hoạt động (Bititci và cộng sự, 2002; Bourne và cộng sự, 2002; Franco và Bourne, 2003; Sharif, 2002); Hệ thống đo lường thành quả hoạt động có thể được thực hiện nhanh hơn nhờ sự hỗ trợ của CNTT (Bititci và cộng sự, 2002; Bourne và cộng sự, 2002; Hudson và cộng sự, 2001); Hệ thống thông tin không đầy đủ là một trong những trở ngại chính đối với việc đo lường thành quả hoạt động (Bititci và cộng sự, 2002; Hudson và cộng sự, 2001; Neely và cộng sự, 2002). Thật vậy, việc đánh giá HQHĐ của toàn DN đòi hỏi kế toán phải có sự hỗ trợ, liên kết dữ liệu từ các bộ phận/phòng ban khác trong DN, nên nếu áp dụng sự tiến bộ của CNTT vào hoạt động này thì việc đánh giá HQHĐ mới tiến hành nhanh chóng và thuận tiện, đáp ứng kịp thời thông tin theo yêu cầu của nhà quản lý. Do đó, giả thuyết H7 được đưa ra là:
H7: Mức độ phù hợp của hệ thống CNTT có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTQT để đánh giá HQHĐ của DN lữ hành Việt nam.
Yếu tố “Hệ thống CNTT” được đo lường thông qua: Hệ thống CNTT linh hoạt cho phép thu thập, phân tích và báo cáo dữ liệu thích hợp phục vụ cho KTQT thực hiện đánh giá HQHĐ của DN; Hệ thống CNTT cung cấp cơ sở dữ liệu đầy đủ và cập nhật để hỗ trợ cho KTQT thực hiện đánh giá HQHĐ của DN; Phần mềm kế toán có thể kết nối với các ứng dụng/phần mềm khác trong DN (nếu có) để kế toán có thể nhập và truy xuất dữ liệu phục vụ cho việc đánh giá HQHĐ của DN (Bititci và cộng sự, 2002; Bourne và cộng sự, 2002; Hudson và cộng sự, 2001; Kennerley và Neely, 2002).
Thứ tám: Yếu tố “Mức độ cạnh tranh môi trường kinh doanh”
Môi trường kinh doanh càng cạnh tranh và bất ổn thì các DN càng cần phải áp dụng các kỹ thuật KTQT nhằm dự báo, tập hợp thông tin để ra quyết định phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Thật vậy, nghiên cứu của Ahmad (2012) đã chứng minh rằng: Mức độ cạnh tranh của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng thuận chiều, đáng kể đến việc áp dụng KTQT nói chung, KTQT để đánh giá HQHĐ nói riêng. Kết luận này cũng được ủng hộ bởi nghiên cứu của Trần Ngọc Hùng (2016). Trong đó, mức độ cạnh tranh của môi trường kinh doanh được đo lường qua: Cạnh tranh về giá, cạnh tranh trong việc phát triển sản phẩm mới, cạnh tranh về các kênh