xuất một cách hợp lý vì nó ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nếu Công ty bố trí cho công nhân nghỉ đều đặn trong năm thì tiền lương nghỉ phép được tính trực tiếp vào chi phí sản xuất (như khi tính tiền lương chính), nếu Công ty không bố trí cho công nhân nghỉ phép đều đặn trong năm, để đảm bảo cho giá thành không bị đột biến tăng lên, tiền lương nghỉ phép của công nhân được tính vào chi phí sản xuất thông qua phương pháp trích trước theo kế hoạch. Thông thường các tháng mùa hè khi thời tiết diễn biến bất thường thì số lượng công nhân xin nghỉ phép sẽ tăng lên sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến giá thành cục bộ giữa các tháng. Để khắc phục được tình trạng này Công ty nên tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất. Mức trích trước được tính như sau:
Mức trích trước hàng
=
tháng theo kế hoạch
Tiền lương chính thực tế phải trả
x
công nhân trực tiếp trong tháng
Tỷ lệ trích trước
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Tự Hạch Toán Chi Phí Nhân Công Trực Tiếp Tại Công Ty Cổ Phần Than Cọc Sáu - Vinacomin
- Đánh Giá Thực Trạng Kế Toán Chi Phí Sản Xuất Và Giá Thành Sản Phẩm Tại Công Ty Cổ Phần Than Cọc Sáu – Vinacomin
- Chiến Lược Phát Triển Sản Xuất Kinh Doanh Tại Công Ty Cổ Phần Than Cọc Sáu - Vinacomin
- Phiếu Xuất Kho Nguyên Vật Liệu
- Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin - 14
- Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin - 15
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Tỷ lệ trích trước
Tổng số tiền lương nghỉ phép theo kế hoạch
của công nhân trực tiếp sản xuất
= Tổng số tiền lương chính theo kế hoạch của
công nhân trực tiếp sản xuất
x 100%
Hàng tháng, khi kế toán trích trước tiền lương nghỉ phép như sau: Nợ TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 335: Chi phí phải trả
Khi có công nhân thực tế nghỉ phép, kế toán định khoản: Nợ TK 335: Chi phí phải trả
Có TK 334: Phải trả người lao động
- Hạch toán tiền bỗi dưỡng độc hại và ăn giữa ca của công nhân trực tiếp sản xuất
Tiền bồi dưỡng độc hại và ăn giữa ca của công nhân trực tiếp sản xuất, công ty hạch toán hết vào chi phí sản xuất chung mà không hạch toán vào chi phí nhân công trực tiếp. Điều này là chưa phù hợp, vì theo thông tư 200/2014/TT- BTC trong doanh nghiệp sản xuất tiền ăn ca của công nhân trực tiếp sản xuất được hạch toán vào chi chí nhân công trực tiếp sản xuất. Vì vậy, tiền ăn ca của công nhân sản xuất phải được hạch toán vào chi phí nhân công trực tiếp.
Mục tiêu cuối cùng của việc hoàn thiện chi phí nhân công trực tiếp là làm cách nào tiết kiệm được chi phí nhân công mà sản xuất vẫn hiệu quả từ đó mới hạ được giá thành sản phẩm. Do đó ngoài những giải pháp trên để giải quyết những tồn đọng trước mắt, còn về lâu dài Công ty cần áp dụng một số giải pháp sau để tiết kiệm chi phí nhân công trực tiếp:
+ Để giảm thời gian lao động hao phí thì Công ty phải bố trí, sắp xếp lao động thật sự phù hợp giữa trình độ tay nghề và yêu cầu của các công nhân. Hơn thế nữa, những người có tay nghề cao nên bố trí những khâu đầu vào quan trọng để xử lý nguyên vật liệu nhằm tránh các hiện tượng không đảm bảo chất lượng nguyên liệu dẫn đến thành phẩm tạo ra cũng không đạt chất lượng cao;
+ Nâng cao năng suất lao động tức là bộ phận quản lý sản xuất nên có kế hoạch sản xuất một cách khoa học và có quy hoạch về lâu dài hợp lý;
+ Nâng cao tay nghề công nhân tạo ý thức sử dụng tiết kiệm thì Công ty cần mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho công nhân trong việc sử dụng các quy trình và công nghệ mới.
3.3.4. Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất chung
Tại Công ty Cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin, một số khoản chi phí về dầu ga doan, bỗi dưỡng độc hại, tiền ăn ca của công nhân trực tiếp sản xuất được hạch toán vào chi phí sản xuất chung, điều này dẫn đến việc tập hợp chi phí sản xuất theo các khoản mục chi phí sẽ không chính xác, làm ảnh hưởng đến tính phân loại chi phí trong giá thành sản phẩm. Ngoài ra, việc thực hiện phân loại chính xác giữa chi phí sản xuất chung và chi phí khoản lý đối với việc trồng cây tạo cảnh quan cũng ảnh hưởng tới giá thành sản xuất của sản phẩm. Để khắc phục được điều trên Công ty cần có biện pháp phân công nhiệm vụ rò ràng giữa các bộ phận để các bộ phận thực hiện đúng chức năng chuyên môn của mình. Cụ thể:
+ Theo dòi tập hợp riêng chi phí nhiên liệu sử dụng tại công trường, phân xưởng hạch toán vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không được hạch toán là chi phí sản xuất chung như Công ty đã làm;
+ Theo dòi và tập hợp riêng tiền chi phí bồi dưỡng độc hại và ăn giữa ca của công nhân trực tiếp sản xuất và chi phí ăn ca của nhân viên phân xưởng để kế toán tách được hai khoản chi phí này theo đúng khoản mục chi phí;
+ Theo dòi và tập hợp các chi phí theo đúng bản chất chi phí phục vụ hoạt động sản xuất thuộc về các phân xưởng hay các chi phí chung liên quan tới hoạt động quản lý.
3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp
3.4.1. Về phía nhà nước và Tập đoàn công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam
Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước XHCN Việt Nam. Để có thể vận hành nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Nhà nước Việt Nam cần có các chính sách kinh tế, tài chính vĩ mô và hệ thống các chính sách quản lý khác nhằm đảm bảo đầy đủ điều kiện cơ bản, tạo hành nang pháp lý và định hướng cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Các điều kiện cụ thể để thực hiện giáp pháp như sau:
- Tạo môi trường pháp lý ổn đinh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi, an toàn. Bảo hộ vững chắc quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho họ gia nhập thị trường; phát huy vai trò của thị trường trong việc phân bổ linh hoạt tối ưu các nguồn lực; phát triển đồng bộ các loại thị trường kiềm chế lạm phát, thất nghiệp ổn định nền tài chính, tiền tệ;
- Hoạch định các chiến lược dài hạn, trung hạn và hàng năm để định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh cho các chủ thể trong nền kinh tế;
- Các cơ chế, chính sách cần được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với xu thế, bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới nhằm đảm bảo sự bình đẳng, ổn định, thông thoáng và minh bạch;
- Hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, nhiệm vụ chính sách tài chính - tiền tệ không chỉ hướng vào các giải pháp tình thế phục vụ các mục tiêu ngắn hạn, mà phải lồng ghép và tạo sự đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách công cụ điều tiết vĩ mô, nhằm từng bước cơ cấu lại thị trường tài chính, tạo điều kiện để phát triển bền vững, phục hồi niềm tin của nhà đầu tư hướng vào các hoạt động dài hạn;
- Thống nhất quản lý nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế trên phạm vi toàn quốc và trên từng vùng, lãnh thổ;
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống luật, các văn bản dưới luật, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tự do trên cơ sở tuân thủ luật pháp. Thường xuyên
lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp để đổi mới thủ tục hành chính tạo cơ chế thông thoáng nhằm ổn định kinh doanh và khuyến khích đầu tư;
- Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán, các chế độ kế toán ban hành phù hợp với tình hình chung của đất nước và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đơn giản hóa các thủ tục kế toán mà vẫn đảm bảo được các nguyên tắc kế toán;
- Khuyến khích sự phát triển của Hội nghề nghiệp, đặc biệt là Hội kế toán Việt Nam trong việc hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác kế toán trong các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần than Cọc Sáu- Vinacomin nói riêng;
- Tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt Nam cần đưa ra quy hoạch mang tính chiến lược để vực dậy ngành than trong cơn khủng hoảng. Hiện tại ngành than đang đối mặt với nhiều khó khăn do sản lượng sản xuất ra không tiêu thụ được do giá cao, chủng loại không phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trong giai đoạn khó khăn và sản xuất cầm chừng ngành than cần có chiến lược mang tính mục tiêu để ổn định sản xuất và vực dậy thị trường thúc đẩy hoạt động tiêu thụ than. Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam cần cấp bách quy hoạch lại thị trường, có những bước đi phù hợp để kiểm soát và quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên khai thác, thúc đẩy các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
3.4.2. Về phía công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin
Trong giai đoạn hiện nay ngành than nói chung và Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu nói riêng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, sản xuất cầm chừng, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được. Đứng trước những thách thức đó, Công ty cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin phải nhận thức rò được nguyên nhân và có biện pháp ứng phó kịp thời để tránh xảy ra hậu quả không mong muốn. Công ty cần nhận thức rò tầm quan trọng của việc thực hiện tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm, đổi mới sản phẩm sản xuất là mục tiêu sống còn đối với Công ty trong giai đoạn này.
Công ty nên chủ động đẩy mạnh phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tham gia quản lý, đảm nhận các công trình; phối hợp tổ chức phát động nhiều đợt thi đua phát huy sáng tạo. Theo đó, các công đoàn cơ sở nên tổ chức phát động thi đua, các hội nghị, hội thảo, tọa đàm chuyên đề, mục tiêu tập trung vào
công tác quản lý thiết bị, tiêu thụ sản phẩm, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ. Việc tổ chức sản xuất được chú trọng tới từng công nhân, từng ca sản xuất được nhắc nhở, tập huấn về đảm bảo an toàn và chấp hành đầy đủ định mức chi phí trong sản xuất.
Xác định mục tiêu và xây dựng mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp. Tổ chức sắp xếp, điều chỉnh và thiết kế hệ thống kiểm soát chi phí sản xuất một cách phù hợp và hiệu quả.
Tạo điều kiện về trang bị, các điều kiện vật chất khác để giúp kế toán nâng cao khả năng thu nhận, xử lý kiểm soát và cung cấp thông tin.
Tiểu kết chương 3
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực trạng cũng như ưu nhược điểm của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu – Vinacomin, chương 3 luận văn đã trình bày chi tiết về các giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty theo chiến lượng chung của Công ty và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và các yêu cầu cơ bản nhằm đảo bảo tính khoa học, hợp lý của công tác kế toán nói chung. Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện về các xác định và phân loại chi phí một cách chính xác đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các điều kiện về phía Nhà nước, Tập đoàn và Công ty để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin.
KẾT LUẬN
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu quan trọng của công tác kế toán. Đặc biệt, là đối với quản trị doanh nghiệp, hạch toán chi phí sản xuất chính xác và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là căn cứ cho bộ phận quản lý doanh nghiệp phân tích và hoạch định ra các dự án, kế hoạch và biện pháp để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qua quá trình nghiên cứu và đi sâu tìm hiểu thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin, tác giả đã hoàn thành đề tài: “Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm than tại Công ty Cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin”. Luận văn đã nêu khái quát đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh của công ty. Đặc biệt bài viết đi sâu phản ánh thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than tại Công ty. Trong bối cảnh hiện nay, ngành than đang gặp nhiều khó khăn do sản phẩm sản xuất ra với giá thành cao hơn so với giá nhập khẩu than từ nước ngoài. Thực tế đó lại càng đòi hỏi các nhà quản lý phải suy nghĩ tìm biện pháp tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
Với mục tiêu là hoàn thiện Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than tại Công ty Cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin. Trên cả phương diện lý luận cũng như thực tế, luận văn đã trình bày một cách có hệ thống các vấn đề chủ yếu liên quan đến Công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm than trong doanh nghiệp và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than. Cụ thể:
Về mặt lý luận: Luận văn đã chỉ rò những vấn đề cơ bản có liên quan đến kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Trên cơ sở đó tạo điều kiện để nắm chắc các vấn đề thuộc về bản chất, nội dung, mối quan hệ, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã nghiên cứu cụ thể thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than tại Công ty cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin trong giai đoạn vừa qua. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích và đánh giá rút ra được những ưu điểm và những tồn tại cơ bản mà Công ty cần khắc phục và
hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Với mục đích hoàn thiện Công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm than tại Công ty, tác giả đưa ra những lập luận về sự cần thiết phải hoàn thiện, yêu cầu, nguyên tắc và mục tiêu hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than tại Công ty.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra những giải pháp để hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm than theo hướng khắc phục những tồn đọng.
Luận văn đã xây dựng được các đề xuất với phía Nhà nước, các cơ quan chức năng và Công ty Cổ phần than Cọc Sáu - Vinacomin nhằm tạo ra cơ chế thông thoáng, an toàn tạo động lực kích thích các doanh nghiệp yên tâm sản xuất giúp cho những giải pháp hoàn thiện có thể áp dụng vào thực tế, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các công ty sản xuất than.
Tuy các vấn đề đưa ra còn nặng về tính lý luận nhưng cũng góp phần không nhỏ để các Công ty sản xuất than có thể hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong quá trình nghiên cứu do nhiều điều kiện hạn chế nên luận văn không thể không tránh khỏi những thiếu sót, tồn tại nhất định. Rất mong các thầy cô giáo cùng các bạn đóng góp thêm ý kiến để luận văn được hoàn thiện và và có tính thiết thực hơn.
Cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn cô giáo TS Phạm Thị Thủy và toàn thể nhân viên kế toán trong công ty đã giúp đỡ tác giả hoàn thành bản luận văn này.