Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế - 12

nhà nhập khẩu vừa trốn thuế nhập khẩu được vừa bảo hiểm đầy đủ giá trị thực của hàng hóa và được nhà bảo hiểm bồi thường theo giá trị này khi hàng hóa bị tổn thất.

Trở lại vấn đề này ở Việt Nam, nếu theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam và Luật kinh doanh bảo hiểm, khi người mua bảo hiểm muốn bảo hiểm cho hàng hóa phần lãi ước tính là bao nhiêu cũng được hay sao? Từ thực tiễn này cho thấy, quy định về số tiền bảo hiểm trong pháp luật bảo hiểm Việt Nam là thiếu chặt chẽ. Xuất phát từ những nghiên cứu trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 41 Luật kinh doanh bảo hiểm và khoản 1 Điều 233 Bộ luật hàng hải Việt Nam như sau:

Điều 41 Luật kinh doanh bảo hiểm cần được sửa đổi là: số tiền bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm và bên bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho tài sản đó.

Khoản 1 Điều 233 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 cần được sửa đổi là: số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hải là số tiền mà người mua bảo hiểm cần phải kê khai theo nhu cầu bảo hiểm của họ và được người bảo hiểm chấp nhận.

3.2.2.5. Định hướng phát triển pháp luật bảo hiểm hàng hải Việt Nam trong điều kiện phát triển thương mại điện tử nhằm đảm bảo tính dự liệu trước của pháp luật

Nếu như ở Việt Nam hiện nay, thương mại điện tử còn là một điều quá mới mẻ và xa lạ thì tại nhiều nước phát triển trên thế giới, thương mại điện tử đang phát triển với một tốc độ như vũ bão và nhiều chứng từ thương mại hàng hải cổ truyền đã được thay thế bằng thông điệp điện tử (EDI). Tuy nhiên, các chuyên gia tin học và các nhà lập pháp vẫn đau đầu chưa tìm ra được một hình thức thuận lợi để thay thế vận đơn đường biển thông thường bằng thông điệp điện tử sử dụng trong thương mại điện tử. Điều này rất dễ hiểu vì vận đơn có tính đặc thù về pháp lý: nó là công cụ để chuyển các quyền đối với hàng hóa đang trên đường vận chuyển cho một người khác bằng cách chuyển giao vận đơn cho người đó qua việc ký hậu. Gần đây, người ta bắt đầu thử nghiệm một loại vận đơn mới áp dụng cho thương mại điện tử gọi là BOLERO BILL OF LADING. Không giống như vận đơn thông thường, vận đơn điện tử không dựa vào các luật quốc gia và các công ước quốc tế để điều chỉnh các quy phạm pháp lý, nó hoàn toàn dựa trên quy tắc của luật mẫu UNCITRAL Model Law on Electronic Commeree 1996. Gần đây, tổ hợp cung cấp dịch vụ Bolero (liên

doanh giữa SWIFT và TT Club) đã cụ thể hóa các quy định này trong bản quy tắc gọi là Bolero Rule Book. Dĩ nhiên quy tắc này chỉ có hiệu lực khi các bên tự nguyện áp dụng. Các khái niệm cơ bản trong vận đơn thông thường cũng được tái hiện trên Bolero Rule Book nhưng đã được biên soạn lại cho phù hợp với môi trường thương mại điện tử. Hiện nay, một số hãng tàu lớn trên thế giới cũng bắt đầu sử dụng vận đơn Bolero nói trên.

Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, vận đơn là chứng từ cực kỳ quan trọng, làm căn cứ để thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, sự phát triển của thương mại điện tử có nguy cơ làm đảo lộn những chuẩn mực pháp lý trong hàng hải và bảo hiểm hàng hải. Sở dĩ như vậy bởi lẽ những căn cứ pháp lý thể hiện trên văn bản giấy tờ không còn nữa mà được thay thế bằng các thông điệp điện tử. Vấn đề này đặt ra cho các nhà lập pháp trong lĩnh vực pháp luật hàng hải và bảo hiểm hàng hải ở Việt Nam một thách thức mới. Đó là làm thế nào để xây dựng được các quy định pháp luật để điều chỉnh cho lĩnh vực thương mại điện tử. Thiết nghĩ, nếu điều này đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh Việt Nam hiện nay còn là xa lạ thì trong một tương lai không xa, đó không phải là điều quá viển vông.

Kết luận


1. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là một chế định quan trọng của pháp luật về bảo hiểm ở Việt Nam. Mặc dù đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta song trên thế giới loại hình bảo hiểm này ra đời từ rất sớm gắn liền với sự xuất hiện của pháp luật về bảo hiểm hàng hải. Sự ra đời loại hình bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế xuất phát từ đòi hỏi của hoạt động kinh doanh vận tải biển quốc tế nhằm chia sẻ rủi ro, bồi thường tổn thất mà đối tượng được bảo hiểm gặp phải. Dưới góc độ chuyên ngành bảo hiểm, loại hình bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là loại hình bảo hiểm phi nhân thọ. Quan hệ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế được xác lập giữa các đối tượng là người bảo hiểm, người được bảo hiểm và người chuyên chở được biểu hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng bảo hiểm. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế nói riêng được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và cũng được pháp luật về bảo hiểm Việt Nam thừa nhận là nguyên tắc quyền lợi có thể bảo hiểm; nguyên tắc trung thực tối đa; nguyên tắc bồi thường; nguyên tắc thế quyền và nguyên tắc bảo hiểm rủi ro. Các nguyên tắc này là những định hướng quan trọng cho việc thực thi pháp luật bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế;

2. Việc nghiên cứu những điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế dưới góc độ khoa học pháp lý được đặt trong mối quan hệ tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật bảo hiểm quốc tế và pháp luật bảo hiểm nước ngoài về lĩnh vực này trên các khía cạnh chủ yếu sau:

- Khái niệm, phân loại hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển

quốc tế;


- Thời điểm hiệu lực và hình thức của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển

bằng đường biển quốc tế;


- Đặc trưng và cơ sở pháp lý của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế;


quốc tế;

- Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển


- Vấn đề khiếu nại đòi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển

bằng đường biển quốc tế;


Mục đích của việc so sánh này nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về lĩnh vực này; đồng thời có được những đánh giá sâu sắc, toàn diện về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế;

3. Việc nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế dựa trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra những tồn tại và những vấn đề pháp lý đặt ra có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật này. Nó đồng nghĩa với việc tạo lập một cơ chế thực thi pháp luật có hiệu quả trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế góp phần tích cực vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;

4. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế cần tuân theo những phương hướng phù hợp với điều kiện, đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Chúng tôi cho rằng, việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế trong thời gian tới phải bảo đảm các phương hướng sau đây:

- Đảm bảo tính kế thừa trong các quy định của pháp luật bảo hiểm hàng hải Việt

Nam;


- Đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh của

ngành hàng hải và ngành bảo hiểm;


- Đảm bảo tính phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật bảo hiểm Việt Nam;


- Phù hợp với pháp luật và thông lệ bảo hiểm hàng hải quốc tế trên cơ sở sát với thực tiễn của hoạt động bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam;

- Bảo đảm tính dự liệu trước của pháp luật bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam;


- Đảm bảo tính dễ hiểu, dễ vận dụng của pháp luật bảo hiểm hàng hải;

Theo hướng đó, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản sau đây nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở nước ta trong thời gian tới:

- Tạo ra tính thống nhất giữa Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật hàng hải Việt Nam trong quy định về bảo hiểm trùng;

- Sửa đổi quy định tại Điều 12 Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển hiện hành cho phù hợp với Bộ luật hàng hải Việt Nam;

- Soạn thảo, ban hành tài liệu giải thích các điều khoản bảo hiểm hàng hải đó áp dụng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam;

- Sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật hàng hải Việt Nam để đảm bảo tính phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế;

- Định hướng phát triển pháp luật bảo hiểm hàng hải Việt Nam trong điều kiện phát triển thương mại điện tử nhằm đảm bảo tính dự liệu trước của pháp luật.

5. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là một đề tài có tính chuyên ngành nghiên cứu sâu, ở nước ta đây còn là một vấn đề tương đối mới ít có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất liên quan trực tiếp đến đề tài và chắc chắn còn có một số nội dung chưa được giải quyết thấu đáo. Chúng tôi hy vọng rằng, những vấn đề này sẽ được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết ở các công trình khoa học tiếp theo.

Danh mục tài liệu tham khảo


Tiếng việt


Văn bản pháp luật


1. Bộ luật hàng hải Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ luật hàng hải Việt Nam (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


3. Luật bảo hiểm hàng hải Anh quốc (MIA) (Nguyễn Phong dịch).

4. Luật kinh doanh bảo hiểm (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


5. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.


Các tài liệu khác


6. David Bland (1998), Bảo hiểm - nguyên tắc và thực hành, Nxb Tài chính, Hà Nội.


7. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.


8. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, - Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

9. Học hội bảo hiểm London (1963), Các điều khoản bảo hiểm hàng hóa.


10. Học hội bảo hiểm London (1982), Các điều khoản bảo hiểm hàng hóa.


11. Trương Mộc Lâm - Lưu Nguyên Khánh (2000), Một số vấn đề cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội.

12. Trương Mộc Lâm (2002), Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa, Nxb Thống kê, Hà Nội.

13. Trương Mộc Lâm - Đoàn Minh Phụng (2005), Giáo trình nghiệp vụ bảo hiểm, Nxb Tài chính, Hà Nội.

14. Những điều kiện thương mại quốc tế-INCOTERMS 2000 (2001), Nxb Thống kê, Hà Nội.


15. Những vụ việc tranh chấp trong giao dịch thương mại hàng hải quốc tế (Đỗ Hữu Vinh dịch) (2003), Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

16. Võ Thị Pha (2005), Giáo trình Lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, Hà Nội.


17. Phân tích các điều khoản bảo hiểm hàng hải (Nguyễn Phong dịch).


18. Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.


19. Võ Nhật Thăng, Một số vấn đề về vận đơn, bắt giữ tàu biển và cứu hộ hàng hải.


20. Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm (2002), Bảo Việt phát hành.


Tiếng anh


21. Hague Visby Rules 1968.

22. The International Convention for Reunification of Certain Rules relating to Bill of Lading 1924.

23. The UN Convention on the Carriage of Good by Sea 1978.

phụ lục


Phụ lục 1

Bảng so sánh quy định về nghĩa vụ của người vận chuyển trong các nguồn luật quốc gia và quốc tế

1. áp dụng cho chuyến hàng nào

H 1924

Không quy định

HV 1968

Vận đơn được cấp tại một nước tham gia Quy tắc; vận chuyển từ một

nước tham gia quy tắc hoặc hợp đồng vận chuyển quy định rõ áp dụng quy tắc này (điều 10)

HG 1978

Vận đơn được cấp tại một nước tham gia Quy tắc; vận chuyển từ một nước tham gia quy tắc; vận chuyển đến một nước tham gia Quy tắc hoặc

hợp đồng vận chuyển quy định áp dụng quy tắc này (điều 2)

BV 1990

áp dụng cho mọi hợp đồng vận chuyển hàng hóa và vận đơn (điều 1)

BV 2005

áp dụng cho mọi hợp đồng vận chuyển hàng hóa và vận đơn (điều 1)

2. Phạm vi trách nhiệm của người vận chuyển

H 1924

Từ khi hàng được xếp lên tàu cho đến khi hàng được dỡ ra khỏi tàu (từ

cẩu đến cẩu) (điều 1.5)

HV 1968

Từ khi hàng được xếp lên tàu cho đến khi hàng được dỡ ra khỏi tàu (từ

cẩu đến cẩu) (điều 1.5)

HG 1978

Từ khi nhận hàng để vận chuyển ở cảng xếp hàng đến khi giao hàng ở

cảng dỡ (từ cảng đến cảng) (điều 4)

BV 1990

Từ cẩu đến cảng (điều 108.1)

BV 2005

Như HG 1978 (điều 74)

3. Nghĩa vụ chăm sóc chung của người vận chuyển

H 1924

Người vận chuyển phải có sự mẫn cán hợp lý vào lúc trước và khi bắt đầu hành trình để: làm cho tàu có đủ khả năng đi biển; biên chế, trang bị, cung ứng thích hợp cho tàu; làm cho các hầm hàng thích ứng và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hóa. Người vận

chuyển phải sắp đặt, chuyên chở, bảo quản, chăm sóc và dỡ hàng một

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế - 12

cách thích hợp và cẩn thận. (điều 3)

HV 1968

Tương tự như H 1924 (điều 3)

HG 1978

Người vận chuyển, người làm công và đại lý của người vận chuyển phải áp dụng mọi biện pháp hợp lý, cần thiết để tránh sự cố gây thiệt hại và

những hậu quả của nó (điều 5.1)

BV 1990

Tương tự như H 1924 (điều 67.2)

BV 2005

Tương tự như H 1924 (điều 75)

4. Miễn trách của người vận chuyển

H 1924

Người vận chuyển được hưởng 17 miễn trách. Trong đó miễn trách về tàu không đủ khả năng đi biển chỉ áp dụng khi người vận chuyển chứng minh được là mình đã có sự mẫn cán hợp lý để tàu có đủ khả năng đi biển trước và vào lúc tàu bắt đầu hành trình. (điều 4)

HV 1968

Tương tự như H 1924 (điều 4)

HG 1978

Không quy định 17 miễn trách. Người vận chuyển phải chứng minh rằng

mình, đại lý hoặc người làm công của mình đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết có thể để ngăn chặn sự cố và hậu quả của nó. (điều 5.1)

BV 1990

Tương tự như H 1924 (điều 108.2)

BV 2005

Tương tự như H 1924 (điều 78)

5. Trách nhiệm chứng minh lỗi

H 1924

Chủ hàng phải đưa ra kết luận về tàu không đủ khả năng đi biển hoặc

hàng hóa không được vận chuyển thích hợp, sau đó người vận chuyển phải chứng minh được hưởng miễn trách tương ứng. (điều 4.2)

HV 1968

Tương tự như H 1924 (điều 4.2)

HG 1978

Người vận chuyển phải chứng minh rằng đã áp dụng các biện pháp hợp lý để tránh tổn thất, trừ trường hợp thiệt hại do cháy gây ra. Người vận chuyển sẽ phải chịu trách nhiệm nếu người khiếu nại chứng minh được rằng cháy là do lỗi lầm hoặc sơ suất của người vận chuyển, người làm

công hoặc đại lý của họ. (điều 5.4)

BV 1990

Người nào muốn hưởng quyền miễn trách nhiệm (điều 108.2b)

BV 2005

Người nào muốn hưởng quyền miễn trách nhiệm (điều 78.2)

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 30/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí