Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Và Gợi Ý Chính Sách Để Phát Triển Hoạt Động Đtmh Ở Việt Nam

Nguồn nhân lực người Việt Nam phù hợp cho phát triển ĐTMH đang rất thiếu. ĐTMH là lĩnh vực rất mới ở Việt nam nên nguồn nhân lực hiểu biết và có những kỹ năng cần thiết cho loại hình kinh doanh này, đặc biệt là những kỹ năng quản lý đầu tư, lựa chọn những dự án có tính khả thi và tham gia tư vấn cho doanh nghiệp có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ĐTMH hầu như chưa có. Hiện nay, đa số nhân viên chính của các quỹ ĐTMH là người nước ngoài, người Việt Nam chỉ đóng vai trò trợ giúp. Trong hệ thống tri thức trong trường đại học cũng chưa cung cấp kiến thức về loại hình đầu tư này.

II. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐTMH Ở VIỆT NAM

1. Một số bài học kinh nghiệm để phát triển hoạt động ĐTMH ở Việt Nam

Chương II đã nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của hoạt động ĐTMH ở một số khu vực trên thế giới. Mỗi khu vực lại có những điều kiện hoàn cảnh về kinh tế khác nhau. Do đó, bài học kinh nghiệm được rút ra phải được lựa chọn từ sự thành công cũng như thất bại của các nước và phải phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam hiện nay. Qua nghiên cứu quá trình hình hoạt động ĐTMH trên thế giới và thực trạng ĐTMH ở Việt Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển hoạt động ĐTMH này như sau:

1.1. Cũng như các hoạt động đầu tư khác, ĐTMH chỉ có thể phát huy vai trò của chúng đối với nền kinh tế khi được điều tiết theo cơ chế thị trường.

Hoạt động ĐTMH là hoạt động tương đối mới mẻ ở Việt Nam, để phát triển tốt thì cần đặt nó dưới sự điều tiết của cơ chế thị trường, với những quy luật của thị trường như cạnh tranh, cung cầu sẽ phát huy hết những vai trò của nó đối với nền kinh tế, đặc biệt là phát triển khoa học công nghệ cao. Mặt khác, ĐTMH thực chất là một hoạt động kinh doanh vốn. Do đó, cũng như các hoạt động kinh doanh khác, ĐTMH chỉ có thể tác động tới các khía cạnh trong nền kinh tế như phát triển công nghệ, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, kích thích sự phát triển của thị trường vốn, v.vkhi nó thực sự dựa vào tín hiệu thị trường và nhận được sự chấp nhận của thị trường để hoạt động hiệu quả. Khi thị trường có nhiều dự án công nghệ cao có tiềm năng, có khả năng ứng dụng vào thực tế cao thì tất yếu sẽ có nguồn vốn ĐTMH rót

vào để phát triển dự án đưa sản phẩm, và ứng dụng khoa học vào đời sống vào thực tiễn. Đồng thời các nhà ĐTMH cũng thu được khoản lợi nhuận không nhỏ khi dự án thành công. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta đã ký những cam kết, và có lộ trình mở cửa thị trường, cho phép các công ty nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, cung ứng sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam. Đồng thời cũng nỗ lực để các quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Hy vọng trong thời gian tới với những biện pháp, chính sách của chính phủ nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả và năng động sẽ thu hút nhiều hơn vốn mạo hiểm đầu tư ở Việt Nam.

1.2. Lĩnh vực mà các quỹ ĐTMH hướng đến trong giai đoạn đầu là các lĩnh vực công nghệ cao

Qua phân tích quá trình hình thành và phát triển hoạt động ĐTMH ở các nước trên thế giới thì ĐTMH ở các nước đều gắn liền với mục tiêu phát triển các lĩnh vực CNC, các công nghệ mới và tiên tiến. Đây cũng chính là đặc điểm phân biệt hoạt động ĐTMH với những hoạt động đầu tư thông thường khác. Với thực tế Việt Nam hiện nay, ĐTMH gắn liền với phát triển công nghệ cần thiết phải nhận được sự quan tâm đúng mực của nhà nước và nằm trong mục tiêu của các quỹ ĐTMH. Trong giai đoạn đầu chính phủ có thể có những biện pháp hướng các quỹ ĐTMH đầu tư vào CNC, đặc biệt là công nghiệp phần mềm sẽ là lĩnh vực trọng tâm nhằm phát huy lợi thế về tiềm năng trí tuệ Việt Nam. Đây là lĩnh vực không đòi hỏi nhiều vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, đồng thời cũng tạo ra nhiều việc làm và mang đến tiềm năng xuất khẩu lớn. Ngoài ra, việc tập trung đầu tư vào các lĩnh vực CNC sẽ góp phần xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo xu hướng tiến tới nền kinh tế trí thức.

1.3. Khu vực kinh tế tư nhân, lớp doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng chính của các quỹ ĐTMH

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Như chúng ta đã biết mục tiêu của hoạt động ĐTMH là phát triển công nghệ cao, công nghệ mới và tiên tiến. Chính vì thế việc đưa những ứng dụng công nghệ

cao vào đời sống mất khá nhiều thời gian, cũng như là kế hoạch thực hiện trong dài hạn. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, các doanh nghiệp lớn khi tiến hành hoạt động R&D thành công thì họ có tiềm lực tài chính mạnh (cũng như có được sự hỗ trợ và tin tưởng từ các định chế tài chính khác như ngân hàng, hay tổ chức đầu tư khác) để tiến hành đưa sản phẩm, công nghệ ra thị trường. Do đó đối tượng các quỹ ĐTMH hướng tới là các công ty tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNC, đang thiếu vốn cũng như kinh nghiệm quản lý từ nhà ĐTMH. Ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hoạt động chiếm phần lớn cả về quy mô cũng như số lượng, và có rất nhiều các công nghệ mới do các cá nhân nghiên cứu, sáng tạo ra họ thuộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi việc đưa vào thực tế rất khó khăn vì họ thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức, điều hành hoạt động kinh doanh, cũng như nguồn vốn cho việc phát triển hoạt động kinh doanh. Do đó, cần có sự hỗ trợ của các quỹ ĐTMH cho các doanh nghiệp này cả về vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành, cũng như những mối quan hệ của các quỹ ĐTMH để phát triển doanh nghiệp, phát triển sản phẩm công nghệ cao.

Hoạt động đầu tư mạo hiểm trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (2008) - 12

1.4. Mô hình tổ chức quỹ ĐTMH được coi là phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mô hình quỹ - công ty cổ phần.

Qua kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy mô hình quỹ ĐTMH dưới hình thức hợp danh hữu hạn là phổ biến nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam theo luật doanh nghiệp năm 2005 quy định các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh hữu hạn phải là các cá nhân. Nếu chọn mô hình này thì những quy định hiện có của pháp luật không đủ để vận dụng.

Mô hình công ty TNHH so với các mô hình khác ít được sử dụng và không phát triển nhiều. Nhưng đối với Việt Nam việc tiếp cận mô hình này có phần thuận lợi hơn do dễ hiểu, và có kinh nghiệm tổ chức từ thực tiễn của nền kinh tế trong nước. Với những quy định mở rộng hơn của Luật Doanh nghiệp 2005 thì việc các tổ chức tài chính thành lập quỹ ĐTMH dưới hình thức công ty TNHH là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, mô hình này cũng dễ dàng hơn cho việc thành lập các Quỹ liên doanh, hoặc 100% vốn nước ngoài.

Tuy nhiên, xét trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay thì mô hình quỹ – công ty cổ phần là phù hợp nhất, đây là một tổ chức tài chính cổ phần, có tư cách pháp nhân hoàn chỉnh, thể hiện được bản chất xã hội hoá nguồn vốn đầu tư dài hạn, với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế xã hội, vừa có thể được điều hành một cách chuyên nghiệp bởi một công ty được thuê quản lý quỹ. Mặt khác, các nhà đầu tư – cổ đông quỹ vẫn có thể kiểm soát dễ dàng bởi không có sự tách rời quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Như vậy, trong các mô hình hoạt động của quỹ ĐTMH thì mô hình quỹ – công ty cổ phần được coi là mô hình phù hợp nhất với các điều kiện của Việt Nam hiện nay.

1.5. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của ĐTMH

Nhà nước có thể trực tiếp tham gia vào hoạt động ĐTMH với vai trò là nhà đầu tư. Tuy nhiên, nhà nước chỉ nên tham gia khi muốn cung cấp tín hiệu an toàn, nhất là đối với những nước trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển hoạt động ĐTMH. Khi có sự tham gia của nhà nước sẽ khuyến khích các nhà đầu tư đang tiến hành đầu tư và các nhà đầu tư còn đang e ngại, trần trừ. Đặc biệt đối với 3 trong 5 giai đoạn đầu của quá trình ĐTMH (vì khu vực tư nhân thường có xu hướng đầu tư vào 2 giai đoạn cuối trong 5 giai đoạn của ĐTMH do tính rủi ro ít hơn). Sự tham gia của Nhà nước phải rất thận trọng bởi vì nếu nhà nước can thiệp quá nhiều có thể gây nên sự “bóp méo thị trường” và làm yếu đi sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, chúng ta cũng nên rút kinh nghiệm từ bài học của Ấn Độ khi các chính sách của chính phủ thay vì tạo ra một tác động tích cực thì lại gây lãng phí, không hiệu quả trong khi làm các nhà đầu tư tư nhân thoái lui. Nhà nước chỉ nên thực hiện trực tiếp ĐTMH trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm khởi xướng hoạt động ĐTMH và phát tín hiệu an toàn cho khu vực tư nhân tham gia hoạt động này.

Nhà nước có thể tác động gián tiếp đến hoạt động ĐTMH thông qua việc tạo ra một môi trường kinh doanh vĩ mô ổn định, xây dựng chiến lược/kế hoạch phát triển ĐTMH, thiết lập các khuôn khổ pháp lý điều tiết quá trình ĐTMH, đồng thời ban hành các chính sách tác động đến các chủ thể tham gia như chính sách

khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, tín dụng Có thể thấy bài học từ quá trình điều hành hoạt động ĐTMH ở Mỹ, chính phủ Mỹ đã ban hành những quy định, chính sách để khuyến khích các tổ chức đầu tư vào cổ phần tư nhân và thức đẩy sự tăng trưởng thị trường vốn mạo hiểm như bộ Luật ERISA (cho phép các quỹ lương hưu phân bổ một phần nguồn lực của mình vào ĐTMH), Luật hiện đại hóa tài chính (quy định khung pháp lý cho ngành dịch vụ tài chính), xây dựng các chương trình cổ phần (SBIC), hay các biện pháp miễn, cắt giảm thuế được thực hiện trong những năm 90, đã có tác động không nhỏ thúc đẩy hoạt động ĐTMH ở Mỹ phát triển như ngày nay.

1.6. Phát triển ĐTMH là cả một quá trình, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh tế

Quá phát triển của ĐTMH liên quan tới nhiều lĩnh vực trong nến kinh tế như sự phát triển của thị trường tài chính, sự phát triển của hệ thống khoa học và công nghệ, cơ sở hạ tầng cho quá trình đổi mới công nghệ đầy đủ và nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ trong lĩnh vực ĐTMH. Chính vì vậy, một mặt, khi thiết kế những chính sách liên quan tới phát triển ĐTMH phải chú trọng sao cho mức độ phát triển của ĐTMH phải phù hợp với sự phát triển của các lĩnh vực khác, mặt khác, muốn phát triển ĐTMH cũng cần có sự kết hợp đồng bộ với các chính sách thuộc các lĩnh vực có liên quan

Thị trường tài chính tiền tệ ổn định và phát triển, trong đó sự phát triển của TTCK là yếu tố quan trọng cho việc thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, các quỹ ĐTMH thúc đẩy sự phát hành cổ phiếu ra công chúng bởi các quỹ ĐTMH đều tập trung đầu tư vốn lớn cho những công ty theo danh mục đầu tư và thoát vốn chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán và mục đích cuối cùng là giúp các công ty này niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc phát triển thị trường sơ cấp nên được chú trọng bởi vì có thể nói rằng hoạt động ĐTMH sẽ không thực hiện được nếu không có sự ra đời của thị trường chứng khoán. Hiện nay, TTCK ở Việt Nam còn non trẻ và kinh nghiệm điều hành của UBCKNN còn thiếu và yếu đã không kịp thời hạn chế được những biến động không tốt của thị trường trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam

suy giảm một phần là do ảnh hưởng từ sự suy thoái của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong thời gian vừa qua. Do vậy, việc ổn định TTCK, phát triển thị trường sơ cấp là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi vì đây là một trong những kênh thoát vốn chủ yếu của hoạt động ĐTMH.

Cơ sở hạ tầng cho quá trình đổi mới công nghệ đầy đủ và phát triển bao gồm: các khu công nghệ, các trường đại học, các cơ sở R&D

Đội ngũ lao động tri thức có trình độ kỹ thuật công nghệ cao và đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp. Đội ngũ này bao gồm: các chuyên gia quản lý quỹ, các doanh nhân đối tác của quỹ, lao động có trình độ kỹ thuật cao, các chuyên gia tư vấn. Có thể nói đây là yếu tố then chốt và là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của thị trường vốn mạo hiểm.

ĐTMH là một loại hình phức tạp, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như ý tưởng về khoa học công nghệ, yếu tố về vốn, nguồn nhân lực, TTCK, bảo hiểm, v.vVì ĐTMH là một loại hình kinh doanh còn mới mẻ ở Việt Nam nên việc học hỏi kinh nghiệm thành công cũng như rút ra bài học về sự thất bại ở các nước là điều cần thiết và quan trọng để điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của nước ta trong thời điểm hiện nay.

2. Một số gợi ý chính sách để phát triển hoạt động ĐTMH ở Việt Nam

Qua quá trình phân tích trên, bài luận văn xin được đưa ra một số gợi ý chính sách để phát triển hoạt động ĐTMH ở Việt Nam.

2.1. Các giải pháp, chính sách mang tính vĩ mô:

Đối với bất kỳ quốc gia nào, chính phủ luôn đóng vai trò quan trọng để phát triển hoạt động ĐTMH, ngoài việc đưa ra những chính sách, biện pháp để ổn định kinh tế vĩ mô góp phần thúc đẩy hoạt động ĐTMH phát triển nói riêng, và nền kinh tế nói chung. Chính phủ còn là cầu nối để gắn kết các chủ thể tham gia vào hoạt động ĐTMH là các nhà đầu tư, nhà quản lý vốn mạo hiểm, và các doanh nhân khởi nghiệp, đưa hoạt động ĐTMH ngày càng phát triển, và hiệu quả. Vậy nhà nước cần đưa ra một số chính sách sau:

2.1.1 Nhà nước cần tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ĐTMH

Vốn ĐTMH là nguồn vốn chủ yếu dành cho quá trình đổi mới công nghệ, phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao tiềm năng. Chính vì thế nhà nước cần tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm mục đích:

Khuyến khích vốn ĐTMH vào quá trình đổi mới.

Bảo vệ quyền và tài sản của cổ đông, những thành viên góp vốn vào quỹ ĐTMH.

Bảo vệ quyền và tài sản của quỹ ĐTMH trong các đối tác mà quỹ ĐTMH tài trợ.

Nhà nước cần phải kiểm soát hoạt động của các quỹ ĐTMH.

Thực tế Việt Nam hiện nay, các quỹ ĐTMH chưa thực sự làm đúng với chức năng của nó là phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ mới do đó nhà nước cần đưa ra những quan điểm rõ ràng và cụ thể về loại hình đầu tư này. Một số quan điểm đáng chú ý như sau:

Quy định phạm vi ĐTMH, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao.

Mức vốn tối thiểu quỹ phải huy động trong một thời gian nhất định.

Giưới hạn mức vốn góp tối thiểu và tối đa mà quỹ năm giữ trong các đối tác tài trợ.

Quy định về thời gian năm giữ cổ phần/rút vốn của các thành viên trong quỹ ĐTMH và trong các đối tác tài trợ.

Trong thời gian qua chính phủ đã xúc tiến việc thành lập quỹ ĐTMH tại Việt Nam, và coi đây là một trong những biện pháp quan trọng cho phát triển thị trường công nghệ. Đây chính là dấu hiệu tốt cho hoạt động này trong thời gian tới, thêm nữa tại kỳ họp quốc hội vừa qua, quốc hội đã đưa ra thảo luận dự thảo Luật công nghệ có những điều khoản liên quan đến hoạt động ĐTMH, trong thời gian tới luật này sẽ sớm được thông qua và ban hành.

2.1.2 Xây dựng cơ sở pháp lý và thể chế thực thi có hiệu quả chính sách cạnh tranh và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Thực hiện chính sách này, nhà nước phải đảm bảo mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng như nhau trong việc tiếp cận các cơ hội đầu tư mà pháp luật không hạn chế. Nếu một khu vực kinh tế tư nhân bị chèn ép và bị đánh bật khỏi thị trường nội địa bởi khu vực kinh tế nhà nước hoạt động bằng lợi thế độc quyền, dù cho nhà nước có đầu tư lớn vào hệ thống khoa học công nghệ, thì vẫn không cải thiện được năng lực đổi mới của quốc gia. Do đó, cần thực thi mạnh mẽ các chính sách nhằm hạn chế tình trạng độc quyền từ các doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh việc thực hiện cổ phần hóa và các hình thức mua, bán, khoán cho thuê doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các dự án đầu tư đổi mới công nghệ.

Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình đổi mới công nghệ. Quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò then chốt và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quyết định tài trợ của nhà đầu tư vốn mạo hiểm. Một dự án đề nghị tài trợ dù mang ý tưởng sáng tạo và có tính khả thi, nhưng dễ bị sao chép và thiếu sự bảo hộ của nhà nước đối với những người có quyền sở hữu nó, thì cũng khó dẫn đến việc hình thành một doanh vụ đầu tư hấp dẫn. Do đó nhà nước cần tiến hành cải cách cơ chế quản lý và thủ tục đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với các hiệp ước quốc tế. Bên cạnh đó nhà nước cần thực thi chính sách xử phạt thích đáng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo môi trường đầu tư lành mạnh khuyến khích đẩy mạnh quá trình nghiên cứu và phát minh các sản phẩm công nghệ mới trên thị trường.

2.1.3 Tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi để phát triển thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng

Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong đó thị trường vốn có mối quan hệ mật thiết đến sự phát triển ĐTMH. Nếu thị trường vốn phát triển mạnh mẽ sẽ làm tăng khả năng cung vốn và giải quyết bài toán tiền tệ, ngoài ra nó còn góp phần gia tăng việc cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ , tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, và quỹ ĐTMH tiến hành hoạt động đầu tư của mình. Theo đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và định hướng tới năm 2020 của Bộ tài chính đã đưa ra mục tiêu là phấn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2022