Các Hoạt Động Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại 15025

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC HUY ÐỘNG VỐN

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại

1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại

NHTM ra đời cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền. Ở mỗi quốc gia khác nhau, khái niệm về NHTM được định nghĩa khác nhau. Nhưng nhìn chung, định nghĩa được sử dụng phổ biến là “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu, thường xuyên là huy động tiền gửi của khách hàng để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và dịch vụ thanh toán; và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (Nguyễn Đăng Dờn, 2005)

Tại Việt Nam, theo điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 17/06/2010 định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận". Từ định nghĩa đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, Luật còn chỉ rò các loại hình ngân hàng gồm:

- Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.

- Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

- Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

- Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhâ dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã.

Hoàn thiện công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Quảng Trạch Bắc Quảng Bình - 3

- Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu tiền gửi không kỳ hạn và cấp tín dụng thương mại, chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các ngân hàng và các TCTD khác. Tuy nhiên, mức độ tham gia vào quá trình cung ứng vốn và các dịch vụ tài chính hiện vẫn chủ yếu là các NHTM.

1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, NHTM thực hiện các chức năng sau đây:

- Chức năng thứ nhất: NHTM là trung gian tín dụng. Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản của ngân hàng và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. Thực hiện chức năng này, một là NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế (trong các tổ chức kinh tế, cơ quan, đoàn thể, dân cư … để hình thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, ngân hàng sử dụng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.

Khi thực hiện làm trung gian tín dụng, NHTM đã huy động triệt để được các khoản vốn nhàn rỗi, điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích quá trình luân chuyển vốn của toàn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp.

- Chức năng thứ hai: của NHTM là trung gian thanh toán. Khi các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được ngân hàng đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chống, tiện lợi, nhất là đối với những khoản thanh toán có giá trị lớn, cùng khắp địa phương, mà nếu khách hàng tự thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn. Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông như séc, thẻ thanh toán … đã tiết kiệm được cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông.

- Chức năng thứ ba là: NHTM cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có nhiều điều kiện

thuận lợi về kho quỹ, thông tin quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Qua đó ngân hàng có thể làm tư vấn tài chính, đầu tư, giữ hộ tài sản quá giá, làm đại lý phát hành chứng khoán cho các doanh nghiệp …để nhận được khoản hoa hồng, phí sẽ vừa tiết kiệm chi phí vừa đạt hiệu quả cao.

1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại có các vai trò sau:

- NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Trong tình hình kinh tế hiện nay, để hoạt động ổn định và phát triển, các thành phần của nền kinh tế cần phải có một lượng vốn phù hợp để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bằng chức năng trung gian tín dụng của mình, NHTM đã sử dụng nguồn vốn huy động được để đáp ứng nhu cầu về vốn một cách kịp thời cho quá cho các thành phần kinh tế, đảm bảo ổn định và nâng cao năng lực hoạt động. Khi thực hiện vai trò này, NHTM là một công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hóa.

- NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường: Để đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường buộc các doanh nghiệp phải đạt được một hiệu quả nhất định theo quy định chung của thị trường. Doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán … mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp tìm đến NH xin vay vốn thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, NH là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường.

- NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước thực hiện các chính sách tiền tệ thông qua ngân hàng trung ương. NHTW sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, các nghiệp vụ trên thị trường mở,…. để tác động đến nền kinh tế thông qua các NHTM.

- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Cùng với xu hướng hội nhập quốc tế, thông qua các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc

đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng, giúp cho việc mua bán, trao đổi, thanh toán ngày càng phát triển, thuận lợi, hiệu quả và an toàn. Thông qua đó, NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế .

1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại bao gồm:

- Huy động vốn: là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với bản thân xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng cho vay đối với nền kinh tế.

Thành phần nguồn vốn của NHTM gồm: Vốn điều lệ; Các quỹ dự trữ; Vốn huy động; Vốn đi vay; Vốn tiếp nhận; Vốn khác. Trong đó vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các NHTM. Đây là nguồn vốn chủ yếu của các NHTM, thực chất là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. NHTM huy động vốn thông qua hình thức huy động tiền gửi (nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác) và phát hành GTCG (chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu…)

- Cho vay, đầu tư dự án: là một trong những hoạt động cơ bản đem lại lợi nhuận cho ngân hàng bao gồm hoạt động cho vay và hoạt động đầu tư:

+ Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng là cho vay và hoạt động này cũng mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.

+ Hoạt động đầu tư: Các ngân hàng cũng đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận như góp vốn vào doanh nghiệp, mua bán chứng khoán trên thị trường hay cho vay trên thị trường liên ngân hàng để tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi.

- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Đây là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của các thành phần kinh tế. Các dịch vụ này phải được Ngân hàng nhà nước cho phép, bao gồm: cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh

toán trong và ngoài nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu chi hộ … Thông qua hoạt động này, các NHTM đã giải quyết được nhu cầu thanh toán, chi trả nhanh chóng, thuận tiện, an toàn của khách hàng, góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, quá trình lưu thông hàng hóa và tốc dộ luân chuyển vốn.

- Các hoạt động khác: Bên cạnh các mảng nghiệp vụ chính trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như: bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, vàng, chứng khoán, cung cấp các dịch vụ ủy thác, tư vấn tài chính tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm, bảo quản hiện vật, cho thuê tủ két …. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, của xã hội, của công nghệ thông tin và sự hội nhập quốc tế, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng để đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế. Chính sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ đã góp phần giảm thiểu rủi ro, tạo nên nguồn thu nhập đáng kể, nâng cao lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường

1.1.5 Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại

Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có vốn. Ngân hàng thương mại được coi là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, do vậy việc tiến hành các biện pháp nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn để tổ chức hoạt động kinh doanh là vấn đề vô cùng quan trọng đối với mỗi Ngân hàng thương mại. Thông qua các nghiệp vụ đa dạng và phong phú trong lĩnh vực nguồn vốn và tài sản Nợ, mỗi Ngân hàng thương mại đã tạo lập cho mình một khối lượng vốn cần thiết, đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Thành phần nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm:

- Vốn điều lệ và các quỹ

- Vốn huy động

- Vốn đi vay

- Vốn khác

1.1.5.1. Vốn điều lệ và các quỹ

a. Vốn điều lệ: Vốn điều lệ ban đầu được hình thành từ các nguồn vốn khác nhau, tùy thuộc vào hình thức sở hữu của ngân hàng đó. Cụ thể là:

- Ngân hàng thương mại nhà nước: Vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp.

- Ngân hàng thương mạicổ phần: Vốn điều lệ được hình thành thông qua hoạt

động phát hành cổ phiếu trên thị trường.

- Ngân hàng thương mạiliên doanh: Vốn điều lệ do phía Việt Nam và phía nước ngoài đóng góp theo tỷ lệ tham gia đã thỏa thuận trong điều lệ.

- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài: Vốn do ngân hàng mẹ ở chính quốc chuyển qua.

- Ngân hàng 100 % vốn nước ngoài: Vốn điều lệ do tổ chức thành lập tự đáp ứng.

Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật (được gọi là vốn pháp định). Ở Việt Nam cũng như tại các quốc gia trên thế giới đều có quy định mức vốn pháp định cho mỗi loại hình ngân hàng. Mức vốn pháp định có thể được quy định thay đổi tùy mỗi thời kỳ, phù hợp với yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

Vốn điều lệ của mỗi Ngân hàng thương mại không phải là một con số bất biến mà có thể thay đổi theo xu hướng tăng lên nhờ được cấp bổ sung, hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung, hoặc được kết chuyển từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp.

Tuy vốn điều lệ không phải là nguồn vốn chủ lực trực tiếp phục vụ cho nhu cầu kinh doanh tiền tệ đối với Ngân hàng thương mại. Song, vốn điều lệ lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng xuất phát từ mục đích sử dụng nó. Trước hết, vốn điều lệ được sử dụng để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị chuyên dùng … tức là tạo nên cơ sở vật chất ban đầu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra các Ngân hàng thương mại còn được phép sử dụng vốn điều lệ để góp vốn, liên doanh, đầu tư, cấp vốn cho các công ty trực thuộc và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. Điều này cũng có nghĩa là mỗi Ngân hàng thương mạicó vốn điều lệ lớn sẽ có khả năng để đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình. Vốn điều lệ cũng là yếu tố làm cơ sở để xác đinh các mức khống chế cho vay tối đa đối với một khách hàng, mức vốn có thể huy động được quy định bởi pháp luật. Vốn điều lệ cũng là yếu tố quan trọng tạo niềm tin, uy tín ban đầu của khách hàng đối với ngân hàng.

b. Các quỹ của ngân hàng:

Các quỹ của ngân hàng được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và các quỹ khác.

1.1.5.2. Vốn huy động

Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn thanh toán. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.

Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng phải đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau :

a. Tiền gửi thanh toán:

Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của cá nhân và doanh nghiệp đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.

b. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu cho người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải rút tiền ra. Tuy không thuận lợi bằng tiền gửi thanh toán nhưng tiền gửi có kỳ hạn lại được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo kỳ hạn gửi tiền.

c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư

Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiền tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ tiền mặt tại nhà

bằng cách mở rộng mạng lưới huy động vốn, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và các dịch vụ của ngân hàng song có thể thể thế chấp vay vốn nếu được sự cho phép của ngân hàng.

d. Tiền gửi của các ngân hàng khác

Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác NHTM này có thể gửi tiền ở tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô của nguồn tiền gửi này là thường không lớn.

1.1.5.3. Nguồn tiền vay và các nghiệp vụ huy động tiền vay

Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng Trung Ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn chủ sở hữu của Ngân hàng. Do vậy nhiều ngân hàng vào từng giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.

a. Vay Ngân hàng nhà nước (NHNN)

Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu. Khi cần tiền, NHTM đem thương phiếu lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNH) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ.

b. Vay các tổ chức tín dụng khác

Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/06/2022