thoáng khí, vừa uy nghi vừa ấm cúng. Công trình là một quần thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy đông lang, tây lang, nhà khách,…Bao bọc xung quanh cũng với kiến trúc mái cong, theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây dựng dở dang. Mãi đến năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại. Trường học được cải tạo thành nhà trưng bày đồ sộ, hài hòa với Miếu.
Tượng Bà đặt giữa chánh điện, đội mão sặc sỡ, mặc áo bào thêu rồng phụng, kim tuyến lấp lánh. Khách hành hương đã dâng cúng cho Bà hàng ngàn áo mão không sử dụng hết, có cái được đặt may từ nước ngoài trị giá vài cây vàng. Tượng Bà là một tác phẩm nghệ thuật tạc bằng đá son, có từ thế kỷ thứ 6. Dáng người ngồi nghĩ ngợi, khoan thai, thuộc loại tượng thần Vít-nu có nhiều ở Ấn Độ, Lào, Campuchia. Trước kia có nhiều hình thức cúng bái mê tín như xin xăm, xin bùa, uống nước tắm bà để trị bệnh,…Ngày
nay, những hủ tục đó không còn nữa. Hình 3.2. Miếu Bà khi về đêm(5)
Đa số khách viếng thăm là để dâng hương cầu tài, cầu lộc thể hiện lòng tạ ơn Bà bằng nhiều hình thức: cúng heo quay, cúng tiền, lễ vật lưu niệm hoặc các tiện nghi phục vụ cho Miếu. Các vật lưu niệm ngày nay quá nhiều, Ban Quản trị phải đưa vào khu nhà lưu niệm để trưng bày. Tiền hỷ cúng hàng năm lên tới vài tỷ đồng (trong đó có vàng, đô-la). Nguồn tài chính này ngoài việc trùng tu, xây dựng lăng, miếu còn góp phần vào nhiều công trình phúc lợi xã hội địa phương như: làm đường, xây trường học, bệnh xá, đóng góp quỹ từ thiện, khuyến học,...
3.3. Thời gian và địa điểm diễn ra Lễ Vía Bà
Lễ Vía Bà diễn ra mỗi năm một lần, từ đêm 23 đến hết ngày 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, nhưng từ đầu tháng 4 là khách thập phương bắt đầu hành hương về Miếu Bà.
Địa điểm diễn ra lễ hội là tại Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, thuộc khóm Vĩnh Tây 2, phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
3.4. Các nghi thức của Lễ Vía Bà
Các lễ cúng ở Miếu Bà vẫn được duy trì theo nghi thức cổ truyền. Vào lúc nửa đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch, lễ tắm Bà được tiến hành khoảng hơn 1 giờ đồng hồ nhằm lau sạch bụi bặm sau một năm dài. Lễ được chuẩn bị từ lúc 23 giờ 30 và bắt đầu lúc 0 giờ. Các vị bô lão trong lễ phục áo dài khăn đóng lên đèn, niệm hương, dâng rượu, dâng trà,…Xong phần nghi thức, khoảng 4 đến 5 phụ nữ đứng tuổi, có uy tín trong làng tiến hành việc tắm Bà. Sau khi cởi áo mão, các vị dùng nước sạch có ngăm hoa lài tỏa mùi thơm ngào ngạt để lau cốt tượng. Xong, xịt nước hoa rồi mặc áo mão mới cho Bà. Mặc dù công việc này được thực hiện sau bức màn che nhưng có hàng ngàn người chen nhau đến chứng kiến ngoài vòng rào chánh điện.
Lễ túc yết và lễ xây chầu được tiến hành trong đêm 25 rạng 26 tháng 4 âm lịch, đây là cuộc lễ chính trong lễ hội Vía Bà. Từ đầu hôm, hàng chục ngàn người đã tụ về Miếu Bà để được tham dự cuộc hành lễ này. Trước đó, hồi 15 giờ cuộc lễ thỉnh sắc thần được tiến hành trọng thể trong tiếng trống lân rộn rã. Các bô lão và thanh niên trong lễ phục, xếp hai hàng dưới bóng cờ, lộng sặc sỡ, hô tống long đình rước bài vị của Ông
(5) http://sodulich.angiang.gov.vn/index.aspx?action=chitietkddl&ID=24
Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân từ lăng về Miếu. Đúng 0 giờ, cụộc lễ túc yết bắt đầu với sự điều khiển của chánh bái và bốn đào thày. Lễ vật dâng cúng là một con heo trắng đã cạo mổ xong và một dĩa máo huyết tượng trưng cho con heo sống cùng với các mâm xôi, ngũ quả,…
Trong tiếng nhạc lễ và chiêng trống trỗi lên từng hồi, ông chánh bái và các đào thày dâng hương, dâng rượu, đọc văn tế, dâng trà. Lễ xây chầu được nối tiếp khi ông chánh bái cầm nhành dương vãi nước và đọc: “Nhất xái thiên thanh, nhị xái địa ninh, tam xái nhơn trường, tứ xái quỹ diệt hình” (có nghĩa là thứ nhất vãi lên trời xanh mong điều cao đẹp, thứ hai vãi xuống đất cho được màu mỡ và trúng mùa, thứ ba vãi loài người được trường thọ, thứ tư vãi diệt loài quỹ dữ).
Xong chánh bái ca công nổi trống ba hồi, đoàn hát bội trên sân khấu trong võ ca trước chánh điện đã chuẩn bị sẵn, nổi trống theo và kéo màn trình diễn. Đến 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 âm lịch, lễ chánh tế được tiến hành như lễ túc yết nhưng đơn giản hơn và 15 giờ cùng ngày đoàn thỉnh sắc làm lễ hồi sắc, đưa bài vị ông Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân trở về lăng, kết thúc một mùa vía.
3.5. Tóm tắt
Có rất nhiều câu chuyện kể về lịch sử của Miếu Bà, nhưng nhìn chung thì Miếu Bà có từ rất lâu (cách đây khoảng 200 năm). Tượng Bà Chúa Xứ do chín cô gái đồng trinh đem từ trên đỉnh núi Sam xuống và khi đến dưới chân núi thì không thể di chuyển đuợc nữa, nên dân làng lập Miếu thờ Bà. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch nên dân làng lấy ngày này làm ngày Lễ Vía Bà. Ban đầu Miếu được làm bằng tre lá và đến năm 1972 được xây dựng lại đồ sộ theo kiến trúc phương Đông có hình chữ Quốc theo đồ án của kỹ sư Huỳnh Kim Mãng nhưng xây dựng dỡ dang. Mãi đến 1995 thì được Ban quản trị lăng miếu núi Sam xây dựng phần còn lại cho đến bây giờ.
Lễ Vía Bà được tổ chức từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 4 âm lịch hàng năm tại Miếu Bà với các nghi lễ như lễ tắm Bà, lễ tút yết và lễ xây chầu (đây là hai nghi lễ chính của lễ Vía Bà), lễ chánh tế, lễ thỉnh sắc và hồi sắc bài vị ông Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân. Phần tiếp theo chương 4 sẽ trình bày về phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Chương 4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Giới thiệu
Chương 3 đã giới thiệu một cách tóm lược về Miếu Bà Chúa Xứ-Châu Đốc bao gồm lịch sử hình thành và phát triển, thời gian và địa điểm diễn ra Lễ Vía Bà, cuối cùng là các nghi thức của Lễ Vía. Kế tiếp, chương 4 sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu của đề tài bao gồm các nội dung sau: thiết kế quy trình nghiên cứu, nghiên cứu sơ bộ, nghiên cứu thăm dò, nghiên cứu chính thức và các loại thang đo sử dụng trong nghiên cứu chính thức. Đặc biệt, trong bước nghiên cứu chính thức sẽ nói rõ hơn về cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu, phương pháp thu mẫu và những thông tin về đáp viên.
4.2. Thiết kế quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu này được tiến hành theo 3 bước (Bảng 4.1):
Bảng 4.1. Các bước nghiên cứu của đề tài
Dạng | Phương pháp | Kỹ thuật | |
1 | Nghiên cứu sơ bộ | Định tính | Phỏng vấn sâu |
2 | Nghiên cứu thăm dò | Định lượng | Phỏng vấn trực tiếp |
3 | Nghiên cứu chính thức | Định lượng | Phỏng vấn trực tiếp |
Có thể bạn quan tâm!
- Hành vi của khách du lịch ở miếu bà chúa xứ - Châu Đốc - 1
- Hành vi của khách du lịch ở miếu bà chúa xứ - Châu Đốc - 2
- Quá Trình Ra Quyết Định Mua Của Người Tiêu Dùng
- Cơ Cấu Giới Tính Biểu Đồ 4.2. Cơ Cấu Trình Độ Học Vấn
- Khách Du Lịch Tham Quan Miếu Bà Bằng Phương Tiện Nào?
- Quá Trình Ra Quyết Định Chọn Các Điểm Tham Quan Ở Miếu Của Khách Du Lịch
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Trong đó, bước nghiên cứu sơ bộ được sử dụng bằng phương pháp định tính để phỏng vấn chuyên sâu với 5 khách du lịch đã tham quan các địa điểm ở Miếu Bà. Từ đó tìm hiểu và khai thác các thông tin liên quan đến đề tài để làm cơ sở thiết lập bảng câu hỏi. Sau khi có bảng câu hỏi, tác giả tiếp tục bước nghiên cứu thăm dò (phỏng vấn thử) bằng cách phỏng vấn trực tiếp 10 khách du lịch để kiểm tra, rà soát bảng câu hỏi lần cuối trước khi phỏng vấn chính thức. Cuối cùng là nghiên cứu chính thức, bước này sử dụng phương pháp định lượng bằng cách phỏng vấn trực tiếp 100 khách du lịch.
Cả 3 bước nghiên cứu trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, để thực
hiện tốt các mục tiêu đã đề ra thì cần phải thực hiện đúng trình tự quy trình sau:
Đặc trưng của các địa điểm tham quan ở Miếu Bà Chúa Xứ-Châu Đốc | |||
Bảng câu hỏi dùng để phỏng vấn thử
(n =10)
Đề cương phỏng vấn sâu
(n=5)
Bảng câu hỏi dùng để phỏng vấn chính thức (n=100)
Hiệu chỉnh
Xử lý dữ liệu
- Thống kê mô tả
- Phân tích bảng chéo
- Phân tích phương sai
Báo cáo
Hình 4.1. Quy trình nghiên cứu đề tài
Để hiểu rõ quy trình nghiên cứu này, phần tiếp theo sẽ phân tích cụ thể hơn từng bước nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, cho chúng ta biết bảng câu hỏi ra sao? Cỡ mẫu bao nhiêu? Phương pháp chọn mẫu như thế nào? Sử dụng các loại thang đo gì?....
4.3. Nghiên cứu sơ bộ
Đây là bước đầu tiên trong quy trình nghiên cứu của đề tài. Trong bước này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính bằng kỹ thuật phỏng vấn chuyên sâu với 5 khách du lịch đã tham quan các địa điểm ở Miếu Bà.
Cụ thể là, tác giả đến Miếu Bà để phán đoán, lựa chọn những khách du lịch đang
rảnh rỗi ngồi ở các ghế đá trong khuôn viên hay chánh điện và họ phải có hiểu biết, có
khả năng trả lời cao. Sau đó, tác giả đến trò truyện với khách du lịch với vai trò như một khách tham quan để họ trả lời một cách tự nhiên và khách quan, nhưng các vấn đề đưa ra đều dựa trên đề cương phỏng vấn sâu (xem phần 2.1, phụ lục 2) đã chuẩn bị trước.
Mục đích của bước nghiên cứu này là tìm hiểu, khai thác và phát hiện các thông tin, các biến số có liên quan đến đề tài. Từ đó làm cơ sở để thiết lập bảng câu hỏi sao cho phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Sau khi tiến hành phỏng vấn sâu thì bảng câu hỏi thu được một số nội dung chủ yếu sau:
- Anh/chị tham quan Miếu Bà vào dịp (thời gian) nào trong năm?
- Anh/chị vui lòng cho biết thời gian tham quan ở Miếu Bà bao lâu?
- Anh/chị tham quan Miếu cùng với những ai và bằng phương tiện nào?
- Anh/chị tham quan các địa điểm nào ở Miếu Bà? Nếu chọn từ hai địa điểm trở
lên, thì anh/chị vui lòng xếp hạng theo mức độ ưu tiên?
- Các loại thức ăn và nước uống nào mà anh/chị sử dụng khi tham quan ở Miếu?
- Anh/chị dùng vật phẩm nào để cúng ở Miếu Bà? Các vật phẩm này có nguồn gốc từ đâu? Anh/chị vui lòng đánh giá chất lượng của chúng?
- Anh/chị vui lòng xếp hạng mức độ tiêu tiền vào các loại sản phẩm và dịch vụ
khi tham quan Miếu Bà, theo quy ước: 1.Nhiều nhất 2.Nhiều 3.Ít 4.Rất ít
- Anh/chị chọn các điểm tham quan này dựa vào những tiêu chí nào? Nếu chọn
từ hai tiêu chí trở lên thì anh/chị vui lòng xếp hạng theo mức độ quan trọng ?
- Những thông tin cá nhân
Tuy nhiên với bảng câu hỏi này thì chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót, bởi vì trong quá trình thảo luận tác giả có thể quên một số biến có liên quan hoặc trong quá trình thiết lập bảng câu hỏi còn mang tính chất chủ quan,…Vì vậy, để có thể thiết lập bảng câu hỏi hoàn chỉnh nhất thì bước tiếp theo tác giả quyết định phỏng vấn thử khoảng 10 khách du lịch đã tham quan các địa điểm ở Miếu Bà.
4.4. Nghiên cứu thăm dò (phỏng vấn thử)
Như đã trình bày ở trên, bước nghiên cứu này được tiến hành với mục đích là kiểm tra, rà soát lại lần cuối bảng câu hỏi trước khi nghiên cứu chính thức. Từ đó có thể xem xét cấu trúc, tính logic của bảng câu hỏi; cũng như phát hiện ra các biến không cần thiết để loại bỏ hoặc bổ sung thêm các biến còn thiếu. Vì vậy, phương pháp được sử dụng trong bước này là nghiên cứu định lượng dựa trên bảng câu hỏi chưa chỉnh sửa, bằng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp khoảng 10 khách du lịch đã tham quan ở Miếu Bà.
Tương tự như bước nghiên cứu sơ bộ, tác giả đến Miếu Bà và đóng vai trò như là một khách tham quan ở Miếu để tìm hiểu, phán đoán, lựa chọn những khách du lịch đã tham quan ở Miếu, có sự hiểu biết, có khả năng trả lời cao để phỏng vấn. Tuy nhiên, trong bước này tác giả thu thập dữ liệu dựa trên bảng câu hỏi định lượng (không cần phỏng vấn sâu). Sau khi phỏng vấn thử bảng câu hỏi có một số thay đổi như sau:
Bảng 4.2. Các câu hỏi trước và sau khi chỉnh sửa
Sau khi phỏng vấn | |
- Anh/chị tham quan các địa điểm nào ở | - Anh/chị vui lòng cho biết mức độ hấp |
Miếu Bà? Nếu chọn hai địa điểm trở lên, | dẫn của các địa điểm tham quan ở Miếu |
thì anh/chị vui lòng xếp hạng theo mức | Bà? |
độ ưu tiên? (câu hỏi khó hiểu) | |
- Các loại thức ăn và nước uống nào mà anh/chị sử dụng khi tham quan ở Miếu Bà? (câu hỏi chưa đi sâu vào vấn đề) | - Anh/chị có dùng các dịch vụ được cung cấp tại Miếu không? Nếu có, anh/chị đánh giá chất lượng của dịch vụ này và giải thích? Nếu không, anh/chị cho biết lý do? |
- Anh/chị vui lòng xếp hạng mức độ tiêu tiền vào các loại sản phẩm và dịch vụ khi tham quan ở Miếu Bà, theo quy ước: 1.Nhiều nhất 2.Nhiều 3.Ít 4. Rất ít (câu hỏi khó trả lời) | - Anh/chị vui lòng cho biết mức độ tiêu tiền vào các loại sản phẩm và dịch vụ khi tham quan ở Miếu Bà (Đvt: 1.000đ): 1.<50 2.Từ 50-100 3.Từ 100-150 4.Từ 150-200 5.>200 |
- Anh/chị chọn địa điểm tham quan dựa vào những tiêu chí nào? Nếu chọn từ hai tiêu chí trở lên thì anh/chị vui lòng xếp hạng theo mức độ quan trọng ? (câu hỏi | - Anh/chị dựa vào những tiêu chí nào để chọn điểm tham quan ở Miếu Bà ? Nếu chọn từ hai tiêu chí trở lên, thì anh/chị vui lòng xếp hạng theo mức độ quan trọng? |
không phù hợp với mục tiêu) |
Sau khi bảng câu hỏi được chỉnh sửa hoàn thiện nhất, thì bước kế tiếp của quy
trình sẽ là nghiên cứu chính thức.
4.5. Nghiên cứu chính thức
Đây là bước cuối cùng và cũng là bước quan trọng nhất trong quá trình nghiên cứu nhằm thu thập đầy đủ dữ liệu đáp ứng đúng mục tiêu đã đề ra. Tác giả sử dụng bảng câu hỏi sau khi chỉnh sửa để phỏng vấn trực tiếp cá nhân bằng phương pháp định lượng. Tuy nhiên để thu thập dữ liệu đảm bảo tính đại diện cao cho tổng thể thì cần phải xác định cỡ mẫu cho phù hợp.
4.5.1. Cỡ mẫu
Theo Lưu Thanh Đức Hải (2003), để xác định cỡ mẫu của một tổng thể cần phải dựa vào 3 yếu tố sau:
(1) Độ biến động của dữ liệu (Variation: V = p(1-p), với p là tỷ lệ xuất hiện
của các phần tử trong đơn vị lấy mẫu và 0 ≤ p ≤ 1)
(2) Độ tin cậy trong nghiên cứu (Confidence level, kí hiệu là Z)
Tổng hợp 3 yếu tố trên ta có công thức sau:
(3) Tỷ lệ sai số (Margin of error: MOE).
p1p
n 2
22
Bây giờ ta sẽ đi vào phân tích cụ thể từng yếu tố này:
Ta thấy, nếu tổng thể ít biến động thì Var → 0 hay p → 1và ngược lại tổng thể
biến động lớn thì Var → max hay p → 0. Vì vậy, p luôn nằm trong khoảng [0,1].
Như vậy thì thông thường p sẽ là bao nhiêu? Bây giờ ta chọn trường hợp xấu
nhất, nghĩa là tổng thể biến động cao nhất. Ta có:
V = p(1 – p) → max p – p2 → max (*)
Ta sử dụng điều kiện hàm số đạt cực trị thì đạo hàm bậc nhất phải bằng 0, từ phương trình (*) ta được: 1 – 2p = 0 => p = 0,5
Ngoài ra, độ tin cậy được sử dụng nhiều nhất trong tực tế là 95% (hay = 5%
2
=> = 2,5% = 1,96) và sai số cho phép là 10%. Do đó, cỡ mẫu tối đa sẽ được xác định như sau: n = (0,25)*(1,96)2/ (0,1)2= 96,04 (tác giả lấy số làm tròn là 100).
Đây chính là cơ sở mà tác giả dùng để xác định cỡ mẫu (n = 100) cho đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, do đặc điểm tổng thể của đề tài là vừa có khách du lịch ở qua đêm, vừa có khách tham quan trong ngày. Do đó, để đảm bảo sự cân bằng tỷ lệ giữa hai đối tượng này, tác giả căn cứ vào bảng tổng hợp số lượng khách du lịch đến tham quan ở Miếu Bà năm 2006 để xác định cơ cấu tỷ lệ cho mẫu nghiên cứu (bảng 4.3).
Bảng 4.3. Số lượng khách du lịch đến Miếu Bà Chúa Xứ-Châu Đốc năm 2006(6)
Khách trú Việt Nam | Khách trú Nước ngoài | Khách trú Việt kiều | Tổng lượng khách trú | Tổng khách trú và tham quan | |
Quí 1 | 135.860 | 13.522 | 938 | 150.320 | 537.500 |
Quí 2 | 171.259 | 7.560 | 888 | 179.707 | 1.180.000 |
Quí 3 | 35.048 | 8.338 | 820 | 44.206 | 221.000 |
Quí 4 | 35.337 | 12.990 | 861 | 49.188 | 281.500 |
Tổng cộng | 377.504 | 42.410 | 3.507 | 423.421 | 2.220.000 |
Dựa vào bảng 4.3 ta thấy, du khách (khách ở qua đêm) đến Miếu Bà chiếm khoảng 20% và khách tham quan trong ngày chiếm khoảng 80%. Do đó, cơ cấu mẫu được xác định là 20 phiếu phỏng vấn du khách và 80 phiếu phỏng vấn khách tham quan.
Với cơ cấu mẫu này thì việc thu thập dữ liệu của 80 khách tham quan trong ngày là rất dễ dàng, vì tác giả có thể phỏng vấn khách du lịch ở Miếu Bà từ sáng cho đến chiều. Còn 20 khách du lịch ở qua đêm thì hơi khó khăn một chút nhưng có thể sử dụng hai phương pháp sau đây để thu thập dữ liệu: Thứ nhất, tác giả ở qua đêm tại Miếu Bà để phỏng vấn; Thứ hai, tác giả có thể đến nhà trọ hoặc khách sạn để phỏng vấn.
4.5.2. Phương pháp chọn mẫu
Do đối tượng nghiên cứu của đề tài đa số là khách tham quan trong ngày nên thời gian mà họ lưu lại tại các địa điểm du lịch ở Miếu Bà rất ngắn. Bên cạnh đó, hầu hết khách tham quan sống ở nông thôn (tỉnh An Giang và các tỉnh ĐBSCL) nên trình độ hiểu biết của họ chưa cao. Từ đó, khách du lịch rất ngại tiếp xúc với người lạ, đặc biệt là tại địa điểm linh thiêng như Miếu Bà thì họ càng sợ cung cấp các thông tin có liên quan đến cá nhân, tâm linh, tín ngưỡng,... Ngoài ra, họ còn sợ bị gạt gẫm, trộm cắp tài sản. Từ những nguyên nhân này, tác giả quyết định sử dụng phương pháp chọn mẫu là phán đoán theo kinh nghiệm của mình.
Cụ thể là, tác giả đóng vai trò như một khách tham quan ở Miếu để hỏi thăm,
tìm hiểu những đối tượng được đánh giá là có hiểu biết và có khả năng trả lời cao, dựa
(6) Nguồn: Phòng kinh tế, thị xã Châu Đốc
trên kinh nghiệm của tác giả. Nếu tiếp xúc với đáp viên mà họ sẵn sàng cung cấp thông tin thì tác giả sẽ tiến hành phỏng vấn ngay sau khi hỏi thăm, tìm hiểu. Ngược lại, nếu họ e ngại không nói thì tác giả sẽ hỏi chuyện cho qua mà không phỏng vấn. Nhưng trong quá trình trao đổi hay phỏng vấn vẫn đảm bảo tính khách quan của dữ liệu thu thập.
Để đảm bảo các đối tượng được phỏng vấn mang tính đại diện cho tổng thể thì tác giả cố gắng phán đoán, lựa chọn khách du lịch giữa nam và nữ gần cân bằng nhau, giữa khách trong và ngoài tỉnh cho phù hợp với cơ cấu khách đến tham quan ở Miếu. Tương tự như trên tác giả áp dụng cho độ tuổi, nghề nghiệp,... Ngoài ra, với phương pháp phán đoán còn có một số ưu điểm sau:
- Thuận lợi cho tác giả chọn đáp viên trả lời
- Có thể tiết kiệm thời gian cho tác giả phỏng vấn trực tiếp cá nhân
- Dữ liệu thu thập nhanh chống và thuận lợi
- Có thể tiết kiệm chi phí
Kế tiếp là phương pháp thu mẫu.
4.5.3. Phương pháp thu mẫu
Có 3 phương pháp có thể thu thập thông tin từ khách du lịch đó là phỏng vấn trực
tiếp cá nhân, phỏng vấn bằng điện thoại và phỏng vấn bằng thư tín.
Do đối tượng phỏng vấn của đề tài là khách du lịch nên hai phương pháp phỏng vấn bằng điện thoại và phỏng vấn bằng thư tín không được sử dụng vì một số khó khăn như sau:
- Đối với phỏng vấn bằng điện thoại, có một số khó khăn sau: Thứ nhất, không quan sát được người trả lời. Từ đó không thấy được những phản ứng của họ đối với các điểm tham quan ở Miếu. Thứ hai, không thể biết được khách nào có hay không có điện thoại. Thứ ba, đáp viên sẽ rất nghi ngại hoặc có ác cảm vì không nhìn thấy người phỏng vấn. Thứ tư, do bảng câu hỏi nghiên cứu hành vi khá dài nên không tránh khỏi tình trạng người trả lời gác máy giữa chừng.
- Đối với phỏng vấn bằng thư tín, cũng có một số khó khăn sau: Thứ nhất, phải đợi khách du lịch trở về nhà thì họ mới trả lời được, nên mất rất nhiều thời gian. Thứ hai, dữ liệu thu thập không đại diện cho tổng thể, vì có thể người khác trả lời mà người đó chưa từng tham quan ở Miếu hoặc sau một thời gian thì khách du lịch sẽ quên những hành vi ở Miếu Bà; Thứ ba, không có ai để khuyến khích hay hướng dẫn đáp viên trả lời. Thứ tư, bảng câu hỏi có thể bị thất lạc trong quá trình chuyển đến phỏng vấn viên.
Từ những khó khăn trên cùng với đặc điểm riêng của đề tài là nghiên cứu “hành vi” của khách du lịch, nên tác giả quyết định chọn phương pháp thu mẫu là phỏng vấn trực tiếp cá nhân. Vì một số ưu điểm sau: Thứ nhất, phỏng vấn viên (tác giả) có mặt để khuyến khích, hướng dẫn đáp viên trả lời. Thứ hai, có thể kết hợp hỏi và dùng hình ảnh để giải thích những thắc mắc cho đáp viên. Thứ ba, có thể chọn mẫu kỹ và chính xác hơn. Thứ tư, tỷ lệ trả lời của đáp viên rất cao và có thể quan sát gia cảnh của đáp viên mà không cần hỏi. Thứ năm, có thể thu thập một số thông tin bên ngoài để làm dẫn chứng cho dữ liệu thu thập từ đáp viên.
Phần tiếp theo là kết quả về những thông tin cá nhân của đáp viên.