Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 11

thành thai trong thời kỳ đó hoặc đã thành thai trước đó nhưng được thừa nhận là con chung mới được xem là con chung vợ chồng. Nhưng với khoa học hiện

đại, một người vợ hoàn toàn có thể giữ lại tinh trùng của chồng trong ngân hàng tinh trùng và thụ thai sau khi chồng mất. Xét về huyết thống, đứa trẻ

được sinh ra hoàn toàn là con chung vợ chồng, là con đẻ của người cha đã mất, liệu nó có được hưởng thừa kế của cha mình? Trường hợp khác, trong thời kỳ hôn nhân, chồng không có khả năng có con, vợ chồng bàn bạc nhất trí sinh con nhờ sự can thiệp của khoa học; hoặc giả sử người vợ không bàn bạc với chồng đã tự đi thụ thai theo cách đó mà chồng không hề hay biết, đứa trẻ sinh ra được xem là con chung vợ chồng hay chỉ là con riêng của vợ? Xác

định tư cách đứa trẻ sẽ quyết định quyền hưởng thừa kế của nó với người mà nó gọi là cha. Điều này đặt ra trước pháp luật yêu cầu về quy định khung pháp lý cho việc xác định cha mẹ cho con sinh ra theo phương pháp khoa học nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền công dân nói chung, quyền thừa kế tài sản nói riêng, cũng là đảm bảo vấn đề nhân đạo xã hội.

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hàng thừa kế


Trên cơ sở phân tích những thành công và tồn tại của pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế, xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hàng thừa kế, tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:

* Về nội dung hàng thừa kế


- Quy định vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất, có quyền ngang nhau và được ưu tiên hàng đầu trong việc hưởng di sản thừa kế của nhau theo pháp luật là nét tiến bộ vượt bậc của pháp luật thừa kế Việt Nam hiện hành, khẳng định vị trí của quan hệ hôn nhân trong gia đình bên cạnh vị trí của quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ trật tự gia đình khẳng định sự bình đẳng vợ chồng và vai trò không thể thiếu của người vợ trong gia đình. Song, theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng quy định quyền thừa kế của vợ, chồng cần thiết phải tính đến sự đóng góp của

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

vợ, chồng trong thực tế đối với khối di sản thừa kế, nhằm đảm bảo sự công bằng. Quy định pháp luật về phân chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hay khi ly hôn đều tính toán tới yếu tố đó. Tuy rằng thừa kế không phải là sự thụ hưởng tài sản theo công sức nhưng nếu một người không hề có vai trò gì trong việc tạo dựng tài sản của người chồng (vợ) mà khi chồng (vợ) chết lại là ưu tiên hàng đầu hưởng di sản rõ ràng không phù hợp với đạo đức xã hội. Hơn nữa, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, trong đó không thể thiếu những hoạt động về kinh tế- mặt hoạt động nhằm tạo ra của cải. Nếu khi chồng (vợ) còn sống, vợ (chồng) không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ luật định kể trên, mối liên hệ vợ chồng thực sự rất lỏng lẻo thì khi chồng (vợ) mất đi, có lẽ nào người còn sống được thừa hưởng tài sản mà người kia để lại là có lý?

- Con đẻ và cha mẹ đẻ được thừa kế theo pháp luật của nhau là hoàn toàn phù hợp xét về cả cơ sở kinh tế và cơ sở đạo đức của vấn đề dịch chuyển di sản, thỏa mãn nguyện vọng chung của toàn xã hội và theo thông lệ chung của pháp luật thế giới. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ những đứa trẻ được thành thai trước và trong hôn nhân mới được xem là con

Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 11

đẻ chung của vợ chồng, là con đẻ của chồng và vợ. Quan điểm này xét tới một số trường hợp trong xã hội hiện đại sẽ gặp phải những vướng mắc. Ngày nay, nhờ sự phát triển rực rỡ của y học, việc người phụ nữ sinh con là giọt máu của chồng sau khi chồng đã mất là điều hoàn toàn có thể. Đứa trẻ được sinh ra

đương nhiên là con đẻ chung của vợ chồng, mang trong mình dòng máu của mẹ và cả của người cha đã quá cố, nhưng nếu xét theo quy định pháp luật hiện hành lại không được coi là con đẻ của chính cha đẻ nó. Do vậy, tác giả thiết nghĩ rằng, các nhà làm luật cần xem xét lại khái niệm con chung vợ chồng làm cơ sở vững chắc để giải quyết không chỉ hợp lý, mà còn hợp tình các tranh chấp thừa kế liên quan.

Cũng từ việc con sinh ra theo phương pháp khoa học, vấn đề xác định tư cách pháp lý của cha, mẹ và con sinh trong trường hợp này cũng trở thành

một yêu cầu bức thiết đối với pháp luật. Điều này liên quan trực tiếp tới vấn đề xác định người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cụ thể là xác định cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ. Bởi vậy, pháp luật cũng cần sớm điều chỉnh cụ thể vấn đề trên, từ đó làm cơ sở giải quyết quyền lợi mọi mặt của những người liên quan, trong đó có quyền thừa kế.

- Với tư cách bổ sung cho quan hệ thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất, con riêng và cha dượng, mẹ kế cũng có thể được thừa kế của nhau nếu họ đã thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cho tới nay chưa có sự giải thích chính thức khái niệm này.

Điều đó có thể dẫn tới thực trạng khi người để lại di sản chết, vì không muốn con riêng của vợ (chồng) người để lại di sản được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của người đó mà những người thừa kế khác không công nhận quan hệ thừa kế giữa người con riêng và cha dượng, mẹ kế đó. Trong bối cảnh khung pháp lý chưa thật sự đầy đủ, các tòa án khó có cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của con riêng và cha dượng, mẹ kế. Như vậy, mặc dù quy định về quan hệ nuôi dưỡng không thuộc lĩnh vực thừa kế nhưng đó cũng là cơ sở để giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật. Bởi vậy, khái niệm "nuôi dưỡng" nói chung, khái niệm "chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con" nói riêng cần được làm sáng tỏ trong pháp luật, để góp phần bảo vệ tốt hơn nữa các quyền lợi về mặt nhân thân cũng như tài sản của công dân, trong đó có quyền thừa kế giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng với nhau, quyền thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế.

- Công nhận quyền thừa kế của con và cha mẹ của người để lại di sản là điều nên làm, bởi hơn ai hết, họ là những người có quan hệ huyết thống gần gũi hơn cả với người để lại di sản. Nhưng, pháp luật một số nước không xếp chung cha, mẹ và con vào cùng một hàng thừa kế như trong pháp luật Việt Nam hiện nay mà ưu tiên con của người để lại di sản ở hàng trước còn cha, mẹ

được xếp vào hàng thừa kế sau. Điều đó có thể lý giải bằng những luận điểm khá thuyết phục. Mặc dù xếp cha, mẹ thuộc hàng thừa kế đầu tiên nếu xét

riêng về khía cạnh đạo đức đã thể hiện sự bảo vệ ở mức độ cao tới đời sống của người có tuổi theo quan niệm dân gian "già cậy con", không may con chết trước cha mẹ, di sản của con để lại sẽ giúp cha mẹ bớt phần khó khăn lúc tuổi cao sức yếu. Nhưng nếu xét tới ý nghĩa kinh tế của việc dịch chuyển tài sản, quy định này sẽ không mang lại hệ quả tốt so với việc di sản thừa kế chỉ chuyển giao cho các con. Bởi nếu bớt đi phần kỷ phần chia cho cha, mẹ, di sản sẽ được chuyển giao một cách tập trung hơn và tạo điều kiện để các con- thế hệ sau kế tục sự nghiệp kinh tế của gia đình. Về điểm này, tôi nghĩ rằng các nhà làm luật Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo để cân nhắc khi quy định các thứ tự thừa kế.

- Về hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, như đã phân tích ở tiểu mục 2.1.2 và 2.1.3, việc quy định ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại và cụ nội, cụ ngoại là người thừa kế của cháu, chắt là chưa thực sự thuyết phục. Nếu di sản thừa kế góp phần đảm bảo cuộc sống cho ông, bà và các các cụ thì điều này nhiều khi cũng chỉ là lý thuyết, trên thực tế, các cháu, chắt không mấy khi phải gánh vác nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà, đặc biệt là các cụ. Vả lại, theo quy luật tự nhiên, ông, bà, nhất là các cụ thường chết trước con cháu. Hơn nữa, di sản nếu phân chia tới ông bà và các cụ sẽ có nguy cơ manh mún cao (do ông, bà, các cụ tuổi cao, không dễ dàng trực tiếp quản lý di sản, khi họ mất, phần di sản này lại được tiếp tục đem chia cho những người thừa kế). Bởi những lẽ đó, tác giả xin

được kiến nghị không quy định những đối tượng này trong các hàng thừa kế.


- Ngoài ra, khi giữa bác, chú, cậu, cô, dì ruột và cháu ruột đã thực sự nuôi dưỡng nhau chư chính cha con, mẹ con thì khi một bên trong quan hệ đó chết, bên kia là người thừa kế theo pháp luật với tư cách thuộc về hàng thừa kế thứ ba liệu đã thật sự công bằng đối với họ? Đặc biệt là khi ta xét tới tương quan quyền thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo quy định pháp luật hiện hành, có lẽ không có giải pháp nào tốt hơn việc xem xét, giải quyết quyền thừa kế giữa những người này với quan điểm coi

đó là một dạng quan hệ nuôi con nuôi thực tế, theo đó, những người này sẽ có quyền thừa kế của nhau như con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi. Tuy nhiên, đó chỉ là

quan điểm được nhiều người chấp nhận, chưa phải là quan điểm chính thống, có cơ sở khoa học một cách chắc chắn. Vậy, để giải quyết vấn đề này, nên chăng pháp luật cần có sự điều chỉnh cụ thể hóa quan hệ đặc biệt kể trên.

Nhìn một cách tổng quát, chúng tôi cho rằng quyền thừa kế theo các hàng thừa kế chỉ nên trao cho những người có quan hệ thân thích, có khả năng hưởng di sản theo quy luật cuộc sống, có thể tính tới cả những người thừa kế chủ yếu về mặt lý thuyết làm "dự bị" cho trường hợp đặc biệt có thể xảy ra, tránh trường hợp không người thừa kế nhận di sản. Để tránh cho di sản thừa kế bị manh mún do phân chia cho nhiều người thừa kế, từng thứ tự thừa kế cũng chỉ bao gồm một số ít đối tượng và sắp xếp theo mức độ quan hệ gần rồi đến xa hơn. Riêng với những người có quan hệ huyết thống, người mang huyết thống trực hệ phải được ưu tiên hơn người mang huyết thống bàng hệ, có cân

đối tới yếu tố khoảng cách về đời trong quan hệ với người để lại di sản, ưu tiên những người có quan hệ huyết thống bề dưới trước theo quan niệm xã hội "nước mắt chảy xuôi", đồng thời tạo điều kiện để tập trung của cải xã hội vào tay những nhân lực trẻ, từ đó "tạo đà" cho sự phát triển. Vậy, những người thừa kế nên chăng được quy định thành các hàng sau đây:

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, con đẻ, con nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ hai gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ ba gồm: anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;

Hàng thừa kế thứ tư gồm: cháu ruột của người chết mà người chết là

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thừa kế thứ năm gồm: cháu của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột;

Hàng thừa kế thứ sáu gồm: bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết.

Ngoài ra, pháp luật cũng có thể dự liệu một số hàng thừa kế mà trong đó bao gồm những người có quan hệ huyết thống xa hơn với người để lại di sản.

Các hàng thừa kế theo pháp luật nếu được quy định như trên sẽ vừa phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc và đạo đức xã hội, góp phần bảo vệ và gìn giữ đoàn kết trong gia đình, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho những người thừa kế tiếp tục quản lý, sử dụng di sản.

Bên cạnh quy định chung về các hàng thừa kế, pháp luật cũng cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật đặc thù như quyền thừa kế giữa vợ và chồng trong trường hợp họ không có những đóng góp chung; giữa con sinh ra theo phương pháp khoa học và cha, mẹ; giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, giữa cháu và bác, chú cậu, cô, dì ruột trong trường hợp họ đã chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con;...

* Về thừa kế thế vị


Thừa kế thế vị về bản chất không phải là thừa kế theo hàng nhưng có liên quan mật thiết với thừa kế theo hàng thừa kế. Giải quyết triệt để vấn đề thừa kế thế vị góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để giải quyết triệt để quan hệ thừa kế theo pháp luật. Hiện nay, pháp luật chưa có những quy định cụ thể về mối quan hệ giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị, do đó, thực tế áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này còn có những vướng mắc nhất định. Trong trường hợp có quan hệ thừa kế thế vị, người được thế vị (người thừa kế chết trước thời điểm mở thừa kế) có thể được kể tên hay không khi xác định hàng thừa kế theo pháp luật? Các tòa án xử lý khá khác nhau về điều này. Có tòa án không kể ra người đó nhưng vẫn tính một suất thừa kế của họ, có tòa án vẫn xếp họ vào hàng thừa kế. Cá nhân tôi ủng hộ cách làm thứ hai, bởi lẽ về bản chất, họ vẫn thuộc hàng thừa kế, chỉ có điều họ không thực tế nhận di sản mà thôi. Tuy nhiên, để khắc phục những bất đồng như vậy, pháp luật cần có những hướng dẫn cụ thể trong trường hợp này.

* Về việc từ chối hưởng di sản thừa kế


Để giải quyết triệt để quan hệ thừa kế theo hàng, pháp luật cũng cần thiết có quy định cụ thể vấn đề từ chối quyền thừa kế. Thực tế giải quyết các

vụ việc thừa kế theo pháp luật cho thấy việc từ chối quyền thừa kế diễn ra khá phổ biến và đa dạng. Có người thừa kế từ chối toàn bộ việc thừa kế, có người lại từ chối một phần di sản thừa kế, có thể chỉ nhận theo tỉ lệ hoặc chỉ nhận di sản này mà không nhận di sản là tài sản khác,... Quy định về từ chối quyền thừa kế hiện nay còn khá khái quát, các tòa án có thể sẽ có những cách áp dụng khác nhau, có thể cho phép hoặc không cho phép một người từ chối một phần quyền thừa kế, hậu quả pháp lý của việc từ chối quyền hưởng thừa kế cũng chưa có quy định, gây không ít lúng túng trong công tác áp dụng pháp luật. Do vậy, pháp luật trong tương lai cần giải quyết được tất cả những vướng mắc đó làm cơ sở cho việc giải quyết thống nhất những vụ việc thực tế tương tự nhau liên quan tới vấn đề này.

* Về nhường quyền hưởng di sản thừa kế


Bên cạnh việc quy định về từ chối hưởng di sản thừa kế, bổ sung quy

định về nhường quyền thừa kế cũng là một giải pháp hữu hiệu để xử lý nhiều trường hợp thừa kế theo pháp luật trên thực tế. Vì quyền lợi của một số người thừa kế khác, có những người thừa kế không nhận phần di sản của mình mà chỉ định cho người khác hưởng. Các tòa án hiện nay khi gặp những trường hợp này vẫn luôn tôn trọng ý chí của những người trong cuộc. Về bản chất, đó chính là nhường quyền thừa kế nhưng pháp luật hiện hành không có quy định nào về vấn đề này. Do vậy, tôi cho rằng, khái niệm nhường quyền thừa kế, chủ thể trong quan hệ nhường quyền thừa kế, hậu quả pháp lý của việc nhường quyền thừa kế,... cần sớm được được quy định chi tiết làm cơ sở vững chắc cho quá trình giải quyết các vụ việc trên thực tế.

Trên đây là một số kiến nghị của tôi nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế, hy vọng sẽ đóng góp phần nào trong công tác xây dựng pháp luật nước nhà thời gian tới. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, pháp luật về thừa kế nói chung, pháp luật về hàng thừa kế nói riêng của chúng ta sẽ sớm hoàn thiện, đáp ứng hiệu quả nhu cầu xã hội.

Kết luận


1. Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những người còn sống, là một trong những căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu - một thứ quyền năng cơ bản của con người. Từ xa xưa, thừa kế

đã xuất hiện như một tất yếu khách quan của lịch sử và ngày càng phổ biến cùng với sự phát triển của xã hội. Điều chỉnh quan hệ thừa kế cũng như điều chỉnh mọi quan hệ liên quan đến sở hữu và chuyển dịch tài sản khác không khi nào được xem là vấn đề đơn giản, nay lại trở nên phức tạp hơn trong điều kiện phát triển đa dạng của các quan hệ sở hữu, các loại tài sản. Chế định thừa kế - một bộ phận quan trọng của pháp luật dân sự- với nhưng quy định chung về thừa kế và các quy định cụ thể về hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật là những căn cứ pháp lý điều chỉnh các vấn đề nảy sinh trong quan hệ thừa kế. Trong thừa kế theo pháp luật, việc xác định hàng thừa kế là một vấn đề then chốt. Do vậy, nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật, nhà làm luật cần thiết quan tâm tới việc hoàn thiện quy định về hàng thừa kế.

2. Di sản là tài sản, nhưng đó không phải là loại tài sản thông thường mà còn mang trong mình ý nghĩa lớn lao của những giá trị gia đình, của những tình cảm con người thiêng liêng, gắn bó. Những quan hệ về thừa kế tài sản vì thế luôn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế - xã hội, mang nặng yếu tố bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc và chịu ảnh hưởng không nhỏ của tín ngưỡng, tôn giáo. Dường như có một nguyên tắc chung trong việc dịch chuyển di sản theo pháp luật, đó là di sản phải được ưu tiên di chuyển cho người thân thích trong gia đình, đặc biệt là những người mà người chết được ràng buộc bởi những bổn phận nuôi dưỡng và hỗ trợ kinh tế.

3. ë nước ta, pháp luật về thừa kế nói chung và pháp luật về hàng thừa kế nói riêng từ năm 1945 đến nay không ngừng được xây dựng, sửa đổi bổ

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 12/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí