Phân Loại Theo Tính Chất Đảm Bảo/ Mức Độ Tín Nhiệm Của Người Vay


- Tín dụng gián tiếp

Gồm những khoản tín dụng được Ngân hàng thực hiện trên cơ sở mua lại các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán trên các phiếu bán hàng, thương phiếu… từ người sở hữu chúng. Các hình thức chiết khấu, bao thanh toán, tài trợ bán trả góp đều thuộc dạng này.

1.1.2.4. Phân loại theo tính chất đảm bảo/ mức độ tín nhiệm của người vay

Theo tiêu chí này, tín dụng Ngân hàng được phân thành 2 loại cho vay có đảm bảo và cho vay không đảm bảo:

- Tín dụng có đảm bảo

Là loại tín dụng dựa trên cơ sở của các biện pháp đảm bảo được pháp luật quy định trong bộ luật dân sự, chẳng hạn như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, tín chấp… Hầu hết các khách hàng vay mới, ít quan hệ đều phải áp dụng đảm bảo mới được Ngân hàng cấp tín dụng. Quy định này nhằm hình thành nguồn trả nợ bổ sung trong trường hợp nguồn trả nợ đầu tiên không thực hiện được.

- Tín dụng không có đảm bảo

Là loại tín dụng chỉ dựa trên uy tín của chính người nhận tín dụng, hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ từ dòng tiền của phương án/ dự án vay, không cần phải có các biện pháp đảm bảo tiền vay đi kèm. Các NHTM có quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trong việc lựa chọn khách hàng để cấp tín dụng không có đảm bảo. Thông thường chỉ có những khách hàng vay có uy tín cao, quan hệ lâu dài, thường xuyên với Ngân hàng, phương án vay có hiệu quả kinh tế, dòng tiền trả nợ rõ ràng, chắc chắn, ngoài ra còn phải cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản khi TCTD yêu cầu thì mới được Ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng không có đảm bảo.

1.1.2.5. Phân loại tín dụng theo hình thức cấp tín dụng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Thông thường các Ngân hàng cấp tín dụng theo các hình thức sau đây:

- Cho vay

Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP An Bình ABbank chi nhánh TP.HCM - 3



Là hình thức cấp tín dụng, trong đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

- Chiết khấu

Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.

- Bảo lãnh Ngân hàng

Bảo lãnh Ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng theo thỏa thuận.

- Bao thanh toán

Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

- Cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện sau đây:

Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê theo hợp đồng hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của 2 bên.

Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại.

Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó.



Tổng số tiền cho thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải bằng giá trị tài sản của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.


1.1.3. Đặc điểm tín dụng Ngân hàng

- Tài sản giao dịch trong tín dụng Ngân hàng đa dạng, có thể dưới dạng tiền tệ, tài sản thực hoặc chữ ký

Do hệ thống Ngân hàng không chỉ có chức năng trung gian tín dụng mà còn có chức năng trung gian thanh toán cho nền kinh tế, nên giá trị tiền tệ mà tín dụng Ngân hàng thực hiện chủ yếu dưới dạng bút tệ (tiền ghi trên sở tài khoản) mà không nhất thiết là tiền mặt. Hành vi giải ngân tiền vay của Ngân hàng có thể được thực hiện bằng cách chuyển khoản vào tài khoản của chính khách hàng vay hoặc đối tác của họ. Đây là điểm khác biệt với các tổ chức cấp tín dụng phi Ngân hàng, theo đó tín dụng mà các tổ chức này chuyển giao cho khách hàng luôn dưới dạng tiền mặt.

Cấp tín dụng bằng tài sản thực là một trong những loại hình tín dụng đang có xu hướng phổ biến trong nền kinh tế. Đối với các TCTD, cấp tín dụng bằng tài sản thực là việc TCTD cho khách hàng thuê tài sản thông qua giao dịch cho thuê tài chính. Hiện nay theo quy định trong Luật các TCTD Việt Nam, cho thuê tài chính là sản phẩm riêng có của các công ty cho thuê tài chính (một loại hình TCTD phi Ngân hàng), Ngân hàng không trực tiếp cung cấp loại hình sản phẩm này.

Cùng với sự lớn mạnh về quy mô hoạt động, uy tín của các Ngân hàng trong nền kinh tế cũng gia tăng, từ đó xuất hiện một loại hình tín dụng Ngân hàng độc đáo với tên gọi là tín dụng chữ ký. Thực chất của loại hình tín dụng này là những cam kết thanh toán có điều kiện mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình. Trong giao dịch đó, Ngân hàng không chuyển giao tiền hoặc tài sản thực cho khách hàng, nhưng thực hiện dưới các hình thức cụ thể như bảo lãnh Ngân hàng, tín dụng chứng từ với công cụ thư tín dụng, hối phiếu chấp nhận của Ngân hàng…

- Rủi ro trong tín dụng Ngân hàng có tính tất yếu, không thể loại trừ hoàn toàn

Không chỉ tín dụng Ngân hàng, tất cả các giao dịch tín dụng nói chung đều dựa trên cơ sở của lòng tin. Rủi ro tín dụng (RRTD) sẽ xảy ra khi một trong hai yếu tố:



khả năng trả nợ và/ hoặc thiện chí trả nợ không được hình thành đầy đủ. Trong hai yếu tố đó thiện chí trả nợ là một yếu tố vô hình (không thể cân đong đo đếm được chúng), do vậy rủi ro tín dụng là một yếu tố xuất phát từ bản chất của quan hệ tín dụng, Ngân hàng không thể triệt tiêu, loại bỏ hoàn toàn được RRTD. Mặt khác trong quá trình khách hàng sử dụng tín dụng, có nhiều biến cố khách quan ngoài tầm kiểm soát của cả Ngân hàng lẫn khách hàng, làm cho khả năng trả nợ thay đổi, vì vậy độ rủi ro tiềm ẩn trong quan hệ tín dụng là khá cao, các Ngân hàng chỉ có thể kiểm soát, giảm thiểu, hạn chế nó mà thôi. Một loạt các biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng như: xây dựng chính sách tín dụng nhằm định hướng cho công tác quản trị RRTD, thiết lập quy trình cấp tín dụng gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn nhằm kiểm soát chặt chẽ quy trình cấp tín dụng, áp dụng các biện pháp bảo đảm thu hồi nợ thông qua thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba, xây dựng chính sách lãi suất thích hợp đảm bảo bù đắp rủi ro, quy định vốn đối ứng từ phía khách hàng, quy định các điều khoản ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng tín dụng...

- Sự hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi là bản chất của tín dụng nới chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng.

Sự khác biệt giữa tín dụng và những giao dịch khác chính là ở sự hoàn trả. Tuy nhiên trong tín dụng Ngân hàng thì sự hoàn trả cực kỳ quan trọng (do bản chất hoạt động Ngân hàng là kinh doanh chênh lệch lãi xuất). Để đảm bảo hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi, trong nghiệp vụ tín dụng phải cân nhắc 2 yếu tố căn bản là:

Xác định thời hạn và kỳ hạn tín dụng phải hợp lý: Thời hạn tín dụng được xác định căn cứ vào các yếu tố sau:

+ Thời gian luân chuyển của đối tượng cấp tín dụng là cơ sở khách quan cho việc xác định thời hạn tín dụng.

+ Khả năng tài chính/ thu nhập của khách hàng cũng là một yếu tố chi phối việc xác định thời hạn và kỳ hạn tín dụng.



Trong nghiệp vụ tín dụng, bên cạnh thời hạn cấp tín dụng, các Ngân hàng còn phải quan tâm đến kỳ hạn trả gốc và lãi. Hiện tại có các phương pháp hoàn trả nợ sau đây:

+ Trả góp: khoản nợ sẽ được hoàn trả thành nhiều kỳ hạn, mỗi kỳ hạn một phần nợ (gồm gốc và lãi) sẽ được trả, cho đến khi thời hạn vay chấm dứt, toàn bộ nợ sẽ được trả hết. Thông thường trả góp xuất hiện trong phương thức cho vay từng lần, cho vay trung dài hạn và cho vay tiêu dùng cá nhân

+ Phi trả góp: khoản nợ gốc sẽ được hoàn trả một lần, không chia nhỏ như trong trả góp. Còn lãi có thể được trả theo nhiều định kỳ hoặc trả một lần khi kết thúc thời hạn vay. Phương pháp hoàn trả này thường áp dụng trong cho vay từng lần, cho vay tiêu dùng cá nhân.

+ Trả tuần hoàn nhiều lần, không có kỳ hạn xác định: đây là phương pháp hoàn trả thường được sử dụng tuần hoàn theo diễn biến chi thu của khách hàng.

Chính sách lãi suất tín dụng cần phải đảm bảo một cách hài hòa giữa mục tiêu lợi nhuận của Ngân hàng và được nền kinh tế chấp nhận:

Về nguyên tắc, lãi suất tín dụng phải bù đắp được các chi phí Ngân hàng bỏ ra trong quá trình hoạt động và tạo lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên tín dụng không chỉ nhằm tạo ra lợi nhuận cho bản thân Ngân hàng, mà còn là đòn bẩy phát triển kinh tế, do vậy lãi suất tín dụng phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Nếu các yếu tố trên không được thỏa mãn, hệ thống Ngân hàng và/ hoặc các khách hàng của họ sẽ gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung.

- Sự hoàn trả trong tín dụng Ngân hàng là vô điều kiện

Các chứng từ được hình thành trong quan hệ tín dụng Ngân hàng như hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, khế ước nợ,… đều thể hiện trên đó nội dung cam kết hoàn trả vô điều kiện cho Ngân hàng khi khoản nợ đến hạn. Đây chính là những ràng



buộc pháp lý mà khách hàng phải tuân thủ trong quá trình sử dụng tín dụng của Ngân hàng. (Bùi Diệu Anh, 2016)

1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM

1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng

Rủi to tín dụng là rủi ro do một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay vốn không trả được nợ cho Ngân hàng. Trong kinh doanh Ngân hàng rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề có thể dẫn đến phá sản.

Căn cứ theo khoản 01 điều 02 của Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dựng phòng để xử lý rủi ro thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”

Ngày nay, nhu cầu về vốn để mở rộng SXKD, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao công nghệ và các nhu cầu phục vụ SXKD luôn tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu này, các NHTM cũng phải luôn mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, điều đó có nghĩa là RRTD cũng phát sinh nhiều hơn.

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào... Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác.

1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng

Hình 1. 1 Phân loại rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng

Rủi ro giao dịch

Rủi ro danh mục

Rủi ro

lựa chọn

Rủi ro

đảm

Rủi ro

nghiệp

Rủi ro

nội tại

Rủi ro

tập trung


- Rủi ro giao dịch là loại rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình giao dịch tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng. Rủi ro giao dịch mang nặng tính chủ quan của bên cho vay trong quá trình tác nghiệp gồm:

Rủi ro lựa chọn là loại rủi ro phát sinh trong quá trình đánh giá, phân tích khách hàng thiếu bao quát, nhiều sơ hở, lựa chọn phương án vay vốn và thu nợ thiếu cân nhắc dẫn đến rủi ro.

Rủi ro đảm bảo là rủi ro về các vấn đề liên quan đến đảm bảo tài sản như điều khoản đảm bảo tín dụng thiếu chặt chẽ, rõ ràng; Danh mục TSĐB thiếu tính cụ thể; Hình thức đảm bảo và phương pháp xử lý tài sản còn bất cập; Tỷ lệ đảm bảo tài sản thiếu dứt khoát, rõ ràng.

Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.

- Rủi ro danh mục là loại hình rủi ro tín dụng phát sinh trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng. Rủi ro danh mục vừa mang tính chủ quan lại vừa chịu tác động của các nhân tố khách quan. Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung:

Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

Rủi ro tập trung phát sinh trong trường hợp Ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. (Nguyễn Đăng Dờn, 2012)


1.2.3. Các tiêu chí đánh giá rủi ro tín dụng

1.2.3.1. Nợ quá hạn

Nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản phản ánh RRTD. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi đến thời hạn trả nợ theo cam kết, người vay không có khả năng trả được nợ một phần hay toàn bộ khoản vay cho người cho vay. Tùy theo thời gian quá hạn, khoản nợ này sẽ được xác định là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, hoặc là nợ có khả năng mất vốn... Nếu Ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ quá hạn lớn thì Ngân hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại.

Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN của NHNN thì nợ được phân loại thành 5 nhóm:


1) Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm:

- Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn;

- Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;

- Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể là 0%

2) Nhóm 2: Nợ cần chú ýbao gồm:

- Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;

- Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;

- Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể là 5%

3) Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:

- Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

- Nợ gia hạn nợ lần đầu;

- Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

- Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 04/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí