Bảng 2.1: Nội dung pháp luật đã được tuyên truyền, giáo dục
Số người đã được nghe | Số người chưa được nghe | |||
Số phiếu | Tỉ lệ % | Số phiếu | Tỉ lệ % | |
Pháp luật hôn nhân và gia đình | 1453 | 93,1 | 107 | 6,9 |
Pháp luật lao động | 805 | 51.6 | 755 | 48.8 |
Pháp luật đất đai | 863 | 55.3 | 679 | 44.7 |
Pháp luật hình sự | 772 | 49.5 | 788 | 50.5 |
Pháp luật dân sự | 812 | 52.1 | 748 | 47.9 |
Pháp luật về khiếu nại tố cáo | 828 | 53.1 | 732 | 46.9 |
Pháp luật về bình đẳng giới | 1085 | 69.6 | 475 | 30.4 |
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình | 1189 | 76.2 | 371 | 23.8 |
Pháp luật về nuôi con nuôi | 686 | 44.0 | 874 | 56.0 |
Pháp luật về bảo hiểm xã hội, y tế | 843 | 54.0 | 717 | 46.0 |
PL về dân số, kế hoạch hóa gia đình | 1184 | 76.0 | 374 | 24 |
Pháp luật về phòng chống tội phạm | 1047 | 67.1 | 513 | 32.9 |
Pháp luật về phòng chống ma túy | 1285 | 82.4 | 275 | 17.6 |
Pháp luật về phòng chống mại dâm | 1219 | 78.1 | 341 | 21.9 |
Pháp luật về dân chủ cơ sở | 732 | 47.0 | 827 | 53.0 |
Pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em | 980 | 62.8 | 579 | 37.1 |
Pháp luật về giáo dục | 730 | 46.8 | 830 | 53.2 |
Pháp luật về hộ tịch, hộ khẩu | 774 | 49.6 | 786 | 50.4 |
Pháp luật về bảo vệ rừng | 825 | 53.0 | 734 | 47.0 |
Pháp luật về môi trường | 826 | 52.9 | 734 | 47.1 |
Pháp luật về an ninh biên giới | 486 | 31.2 | 1073 | 68.8 |
Pháp luật về chính sách dân tộc | 586 | 37.6 | 973 | 62.4 |
Pháp luật về an toàn giao thông | 906 | 58.1 | 654 | 41.9 |
Pháp luật về doanh nghiệp | 610 | 39.1 | 950 | 60.9 |
Pháp luật khác | 31 | 2.0 | 1529 | 98 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Pháp Luật Cho Phụ Nữ
- Giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay - 7
- Các Quyền Và Chính Sách Đối Với Phụ Nữ Theo Pháp Luật Nam
- Nhu Cầu Về Nội Dung Pháp Luật Cần Được Giáo Dục
- Tăng Cường Công Tác Tuyên Truyền, Phổ Biến, Giáo Dục Pháp Luật Cho Phụ Nữ
- Giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay - 12
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Nguồn: [32].
2.3.2.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Bên cạnh việc chú trọng đến nội dung giáo dục pháp luật thì hình thức giáo dục cũng không kém phần quan trọng, có thể nói nó quyết định đến 80% hiệu quả của việc giáo dục. Ví dụ như đối với phụ nữ vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số không biết chữ mà chúng ta lại tuyên truyền bằng tờ rơi, tờ gấp, sách hỏi đáp thì không phù hợp. Với đối tượng này hình thức tuyên truyền bằng miệng là thích hợp nhất. Thông qua số liệu cho thấy 81.3% phụ nữ được hỏi đã tiếp cận với các nội dung của giáo dục pháp luật thông qua tuyên truyền miệng. Tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn cũng là một hình thức được áp dụng rộng rãi, bởi tập huấn có thể cùng lúc tuyên truyền được cho nhiều người, do đó có đến 73.4% phụ nữ được hỏi đã tiếp cận với hình thức giáo dục này.
Bảng 2.2: Hình thức giáo dục pháp luật đã được áp dụng
Số người đã được nghe | Số người chưa được nghe | |||
Số phiếu | Tỉ lệ % | Số phiếu | Tỉ lệ % | |
Tuyên truyền miệng | 1269 | 81.3 | 291 | 18.7 |
Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật | 554 | 35.5 | 1006 | 64.5 |
Hội nghị, hội thảo, tập huấn | 1150 | 73.4 | 410 | 26.3 |
Phát tờ rơi, tờ gấp, sách hỏi đáp pháp luật… | 959 | 61.5 | 600 | 38.5 |
Sinh hoạt câu lạc bộ | 637 | 40.8 | 923 | 59.2 |
Qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở | 853 | 54.7 | 707 | 45.3 |
Tuyên truyền qua băng hình, băng tiếng | 495 | 31.8 | 1064 | 68.2 |
Sinh hoạt hội viên | 892 | 57.2 | 668 | 42.8 |
Tư vấn lưu động | 430 | 27.6 | 1129 | 72.4 |
Phiên tòa xét xử lưu động | 396 | 25.4 | 1164 | 74.6 |
Trợ giúp pháp lý | 722 | 46.3 | 838 | 53.7 |
Họp nhóm | 605 | 38.8 | 954 | 61.2 |
Họp tổ dân phố | 877 | 56.2 | 683 | 43.8 |
Thông qua nhóm hội viên nòng cốt | 614 | 39.4 | 946 | 60.6 |
Thông qua gương điển hình | 369 | 23.7 | 1190 | 76.3 |
Thông qua hoạt động hòa giải cơ sở | 596 | 38.2 | 964 | 61.8 |
Sử dụng tủ sách pháp luật | 326 | 20.8 | 1234 | 79.2 |
Sinh hoạt văn hóa văn nghệ cộng đồng | 720 | 46.2 | 840 | 53.8 |
Báo, tạp trí, tờ tin | 452 | 29.0 | 1106 | 70.9 |
Hình thức khác…… | 47 | 0.3 | 1513 | 97.0 |
Nguồn: [32].
2.3.2.3. Cơ quan, tổ chức, báo cáo viên làm công tác giáo dục pháp luật
Trong những năm gần đây thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ nên nhiều các cơ quan, tổ chức đều tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người dân nói chung và phụ nữ nói riêng. Với điều kiện thuận lợi là tổ chức chính trị xã hội, có lực lượng hội viên đông đảo và được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương xuống địa phương nên có đến 75.9% số phụ nữ được hỏi biết Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và 47.5% biết Hội Nông dân có hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Bảng 2.3: Cơ quan, tổ chức làm công tác tuyên truyền mà phụ nữ được biết
Số người biết cơ quan/tổ chức có tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật | Số người chưa thấy cơ quan/ tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật | |||
Số phiếu | Tỉ lệ % | Số phiếu | Tỉ lệ % | |
Cán bộ tư pháp | 992 | 63.6 | 568 | 36.4 |
Cán bộ Mặt trận Tổ quốc | 534 | 34.2 | 1026 | 65.8 |
Cán bộ Hội Nông dân | 741 | 47.5 | 819 | 52.5 |
Cán bộ Hội Phụ nữ | 1183 | 75.9 | 376 | 24.1 |
Cán bộ Hội Cựu chiến binh | 455 | 29.2 | 1104 | 70.8 |
Công an viên | 772 | 49.6 | 786 | 50.4 |
Cán bộ Đoàn Thanh niên | 576 | 36.9 | 984 | 63.1 |
Bộ đội biên phòng | 197 | 12.6 | 1363 | 87.4 |
Luật gia | 322 | 20.6 | 1238 | 79.4 |
Cán bộ văn hóa | 507 | 32.5 | 1053 | 67.5 |
Già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố | 496 | 31.8 | 1064 | 68.2 |
Tổ chức khác (cụ thể)…. | 79 | 5.1 | 1481 | 94.9 |
Nguồn: [32].
2.3.2.4. Vấn đề trợ giúp pháp lý cho phụ nữ
Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nxb. Khoa học xã hội, 1997 thì "Legal aid" được dịch là "Trợ cấp pháp lý". Ngoài ra, trong một
số tài liệu khác dịch "Legal aid" là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp"... Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau về thuật ngữ này. Xuất phát từ bản chất và hình thức hoạt động "Legal aid" trên thế giới và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua, thuật ngữ "Legal aid" được dịch là "Trợ giúp pháp lý" đang được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo ở Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên thế giới rất phong phú và đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, chưa có quan niệm chung, thống nhất về trợ giúp pháp lý.
Do có nhiều mô hình trợ giúp pháp lý, với những quan niệm khác nhau về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí trợ giúp pháp lý trên thế giới, nên ở mỗi nước đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính kinh tế, nhân đạo và tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý. Tính kinh tế, nhân đạo thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...).
Theo Điều 3 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 thì trợ giúp pháp lý được
hiểu là:
Việc cung cấp dịch vụ pháp lý (tư vấn, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hòa giải...) miễn phí của các tổ chức thực hiện
trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật nhằm giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [53].
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm trên 1/2 dân số song lại thường là đối tượng yếu thế, ít được tiếp cận với pháp luật, là nạn nhân của các nạn bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ, nghèo đói và phụ thuộc. Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa quy định phụ nữ nói chung là người được trợ giúp pháp lý miễn phí (trừ phụ nữ nghèo, phụ nữ thuộc diện người được trợ giúp pháp lý), nhưng trong khuôn khổ một số dự án quốc tế, ngoài việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý đã thực hiện trợ giúp pháp lý cho phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình và nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Cùng với sự phát triển của đất nước, tiến đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân; "mọi quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật", nên trong thời gian gần đây hàng loạt các công ty tư vấn Luật, các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Trung tâm tư vấn Luật ra đời tuy nhiên chỉ có 46.3% số lượng phụ nữ được hỏi đã được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý. Đối với các Trung tâm, Công ty tư vấn, trợ giúp pháp lý hầu hết là những cán bộ, nhân viên có trình độ chuyên sâu về pháp luật, do đó nếu tận dụng được những đối tượng này làm báo cáo viên, tuyên truyền viên thì hiệu quả giáo dục pháp luật sẽ cao hơn.
Chương 3
TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Phụ nữ là một lực lượng quan trọng trong việc phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Mục tiêu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta là xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đảm bảo tự do dân chủ của nhân dân đòi hỏi nhà nước "phải tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, công dân có trách nhiệm với nhà nước như thế nào thì nhà nước cũng phải có trách nhiệm đối với công dân như thế ấy" 21, tr. 97]. Để làm được điều đó đòi hỏi phải mỗi công dân phải hiểu và và đúng các quy định pháp luật.
Trong hoạt động hàng ngày, ý thức và hành vi của mỗi công dân đều có tác động, ảnh hưởng đến việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Việc một công dân vi phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật, có thể liên quan đến lợi ích hoặc thiệt hại vật chất, tinh thần của nhiều cơ quan tổ chức và cá nhân. Vì thế, hoạt động của công dân đều góp phần quan trọng vào việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội. Để bảo vệ được quyền và lợi ích cơ bản của bản thân, gia đình bắt buộc người phụ nữ phải hiểu biết pháp luật.
Việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ nhằm trang bị cho họ những kiến thức cơ bản, cần thiết về pháp luật để họ vận dụng pháp luật mà xử lý, giải
quyết công việc hàng ngày theo pháp luật, đúng pháp luật là rất quan trọng. Quan trọng hơn, họ cũng chính là những người tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các thành viên trong gia đình, cộng đồng rất có hiệu quả. Vì vậy, nếu người phụ nữ có trình độ hiểu biết pháp luật toàn diện, sâu sắc, có thái độ tôn trọng pháp luật, có hành vi chấp hành pháp luật nghiêm túc, thì việc họ và gia đình vi phạm pháp luật sẽ giảm xuống mức thấp nhất. Ngược lại, nếu người phụ nữ không hiểu biết pháp luật, hoặc biết nhưng hiểu sai, ý thức pháp luật kém, có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có tác động xấu xã hội.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của pháp luật trong đời sống xã hội đối với người phụ nữ, tuy nhiên để giáo dục có hiệu quả thì cần phải xác định nhu cầu của họ về những nội dung họ mong muốn được hiểu biết, hình thức, cơ quan nào tuyên truyền, giáo dục đối với họ hiệu quả cao nhất.
3.2. NHỮNG NHU CẦU THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ
Để có thể đưa ra phương hướng và những giải pháp sát đúng với thực tế hiện nay, phù hợp với yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật của phụ nữ tôi đã tiến hành khảo sát về nhu cầu hiểu biết pháp luật phụ nữ theo đại diện các vùng miền, các đối tượng phụ nữ trong cả nước (với 1.560 phiếu khảo sát).
Kết quả khảo sát đã được tổng hợp theo từng vấn đề sau đây.
3.2.1. Về nhận thức chung của phụ nữ về nhu cầu hiểu biết pháp luật
Có tới 82.4% phụ nữ được hỏi cho rằng "phụ nữ chỉ cần biết và hiểu rõ các quy định của pháp luật liên quan đến phụ nữ". Có lẽ để phụ nữ hiểu và làm đúng những quy định liên quan đến phụ nữ cũng là một thành công đáng mừng trong công tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ, bởi lẽ những quy định liên quan trực tiếp đến đời sống của người phụ nữ cũng rất nhiều: như Luật dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới. Chỉ có 20.6% phụ nữ cho rằng "phụ nữ không cần biết các
quy định của pháp luật vì đó là việc của cơ quan nhà nước", đây cũng là một kết quả cho thấy ngày càng nhiều phụ nữ quan tâm và mong muốn hiểu biết pháp luật để bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của bản thân cũng như gia đình. Trước đây, phụ nữ thường chỉ là người lo toan, quán xuyến các công việc trong gia đình, không tham gia các hoạt động xã hội nên việc quan tâm và hiểu biết về các quy định pháp luật cũng hết sức hạn chế. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, ngày càng nhiều phụ nữ đã quan tâm đến các quy định của pháp luật, nhất là các quy định liên quan trực tiếp đến bản thân và gia đình.
Bảng 3.1: Về nhận thức chung của phụ nữ về nhu cầu hiểu biết pháp luật
Số tán thành | Số không tán thành | |||
Số phiếu | Tỷ lệ% | Số phiếu | Tỷ lệ% | |
Phụ nữ cần biết tất cả các quy định của pháp luật | 179 | 12.6 | 1363 | 87.3 |
Phụ nữ chỉ cần biết và hiểu rõ các quy định của pháp luật liên quan đến phụ nữ | 1285 | 82.4 | 275 | 17.6 |
Chỉ những phụ nữ làm công tác liên quan đến pháp luật mới cần nắm vững các quy định của pháp luật | 720 | 46.4 | 840 | 53.8 |
Phụ nữ không cần biết các quy định của pháp luật vì đó là việc của cơ quan nhà nước | 322 | 20.6 | 1238 | 79.4 |
Nguồn: [32].
3.2.2. Về nhu nội dung pháp luật được giáo dục
Qua số liệu cho thấy, hầu hết các nội dung pháp luật liên quan nhiều, trực tiếp đến phụ nữ thì nhu cầu được giáo dục đều cao như: Pháp luật về Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Dân sự…Những nội dung pháp luật trên trong những năm qua cũng đã được Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tuyên truyền, phổ biến, giáo dục rộng rãi tới đông đảo phụ nữ, tuy nhiên mỗi chị em lại có cách tiếp cận, nhận thức khác nhau nên có thể được tuyên truyền, giáo dục rồi nhưng vẫn có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn. Hoặc cá biệt có những phụ nữ chưa hề nghe đến Luật Phòng chống bạo lực gia đình (mặc dù đã được thông qua từ năm 2007), tuy nhiên