bản về cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO và đưa ra một số giải pháp nhằm
khắc phuc
khó khăn vướng mắc và nâng cao hiêu
quả trong quá trình giải quyết
tranh chấp như :
- Nguyêñ
Tiến Vinh, “Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu
tiên của Việt Nam tại WTO” (2011), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 16(201), tr. 19-
29; “Kinh nghiêm
Có thể bạn quan tâm!
- Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 1
- Danh Mục Minh Họa Các Biện Pháp Đầu Tư Liên Quan Đến Thương Mại Bị Cấm Áp Dụng (Trims)
- Quy Trình Thủ Tục Giải Quyết Tranh Chấp
- Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 5
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
nước ngoài và viêc
tăng cường hiêu
quả tham gia của Viêṭ Nam
vào cơ chế giải quyết tranh chấp tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)” (2012), Tạp chí Khoa học ĐHQGHN - Luật học (28), tr. 165-181; “Vai trò của các thể chế phi nhà nước trong việc bảo đảm Việt Nam – một nước đang phát triển – hội nhập thành công sau khi ra nhập WTO” (2013), Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội.
- Lê Thị Hồng Hải, “Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO” (2009), Luận văn thạc sĩ luật Quốc tế, Khoa Luật – ĐHQGHN, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồng Anh, “Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, các bài học kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian tới” (2011), Luận văn thạc sĩ luật Quốc tế, Khoa Luật – ĐHQGHN, Hà Nội.
- Nguyên
Tiến Hoàng , “Giải quyết tranh chấp trong tổ chức thương mại thế
giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” (2012), luân
án Tiến sĩ bảo vệ ngày
26/4/2012, Trường Đaị hoc
Ngoaị thương.
- Nguyễn Hữu Huyên , “Nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam vào cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO” (2015), đăng tải taị trang thông tin điên tử của
Viên
nhà nước và pháp luâṭ ;...
Hoặc những bài viết nêu ra những nội dung cơ bản của Hiệp định các biện
pháp đầu tư liên quan tơi thương mại , đồng thời đưa ra môt nào để thích nghi với hiệp định như:
số khuyến nghi ̣làm thế
- Trần Quang Thắng, “Hiệp định TRIMs và sự thích nghi của Việt Nam trong WTO” (2007), Tạp chí kinh tế và phát triển, (119).
- Nguyên
Lê Phương Anh , “Hiêp
điṇ h các biên
pháp đầu tư liên quan tới
thương maị (TRIMs) và những tác động đối với Việt Nam trong tiến trình đàm phán
gia nhâp
WTO” (2004), Luân
văn Thac
si,
trường Đaị hoc
Ngoaị thương.
Có thể thấy rằng giải quyết tranh chấp liên quan tới Hiệp định các biện pháp
đầu tư liên quan tới thương mai
(TRIMs) là đề tài mới ít được nghiên cứu tại V iêt
Nam. Không chỉ ở Viêṭ Nam , vấn đề này cũng hiếm khi đươc quan tâm trong giới
học thuật quốc tế , ngoài những công trình nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp taị WTO , vấn đề giải quyết tranh châp liên quan tới TRIMs cũ ng ít đươc̣
đề
câp
tới, chỉ có những bài viết nghiên cứu về việc các quốc gia thành viên sử dụng
TRIMs như thế nào, và những hạn chế bất cập trong việc thực hiện như :
- Rabiu Ado, Local content policy and the WTO Rules of Traderelated
Investment Measures (TRIMs): the Pros and Cons (2013), đăng trên tap International Journal of Business and Management Studies, UK.
chi
- Oliver Morrissey, Investment and Competition Policy in the WTO: Issues
for Developing Countries (2002), đăng trên tap 20, số 1, trang 63–73.
chí Development Policy Review , tâp
Chính vì vậy, có thể thấy đề tài “giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp
điṇ h các biên
pháp đầu tư liên quan tới thương mai
(TRIMs)” là môt
trong những đề
tài tuy không mới nhưng laị ít đươc
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
quan tâm, đề cập cho tới thời điểm hiện tại.
Rút ra được những kinh nghiệm cho Việt Nam, nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO nói chung và các tranh chấp liên quan tới các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần bổ sung và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO nói chung và Hiệp định TRIMs nói riêng;
- Đánh giá kết quả việc giải quyết tranh chấp liên quan đến TRIMs;
- Rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những giải pháp mà Việt Nam cần làm để phòng ngừa rủi ro, giải quyết có hiệu quả các tranh chấp đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại; cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO; các vụ việc liên quan đến các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại trong khuôn khổ Hiệp định TRIMs – WTO.
- Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương (TRIMs) – WTO; Thời gian từ khi tổ chức thương mại thế giới ra đời tới thời điểm hoàn thành luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến các vấn đề nghiên cứu. Đồng thời Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đánh giá một cách tổng quát tình hình giải quyết tranh chấp đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong thời gian qua;
- Làm rõ một số hạn chế, tác động đối với Việt Nam khi tham gia vào giải quyết các tranh chấp;
- Một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm nâng cao nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra khi tham gia giải quyết các
tranh chấp và hướng đi cho Việt Nam trong thời kỳ hôi
7. Bố cục của Luận văn
nhâp
quốc tế .
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bao gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs trong khuôn khổ WTO.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới Hiêp và kinh nghiệm của các nước.
điṇ h TRIMs
Chương 3: Vấn đề phòng và giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs tại Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI TRIMs TRONG KHUÔN KHỔ WTO
1.1. Hiệp định TRIMs
1.1.1. Lịch sử ra đời
Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức thương mại thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/04/1994 (đây là kết quả của vòng đàm phán Uruguay, đánh dấu sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới – WTO).
Sau khi xem xét các hoạt động của Hiệp định GATT liên quan đến các biện pháp đầu tư có thể làm hạn chế hoặc bóp méo tự do hóa thương mại, các quốc gia thành viên đồng ý rằng cần phải đàm phán, xây dựng thêm những quy định cần thiết, thích hợp nhằm loại bỏ các biện pháp đầu tư có ảnh hưởng xấu đến thương
mại, tại Tuyên bố Punta del Este (vòng đàm phán Uruguay). Hiêp đinh TRIMs với
vai trò mong muốn thúc đẩy, mở rộng sự tự do hoá thương mại, tạo thuận lợi cho việc luân chuyển nguồn vốn đầu tư qua biên giới quốc tế, với mục đích tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cho các thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát triển, đồng thời phải bảo đảm sự cạnh tranh tự do, công bằng. Hiệp định TRIMs cho rằng một số biện pháp đầu tư nhất định có thể sẽ làm ảnh hưởng xấu và bóp méo sự tự do
hóa thương mại, vì vậy TRIMs quy định các thành viên không được sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng hóa nước ngoài, cũng như việc áp đặt các biện pháp hạn chế định lượng liên quan tới hàng hóa trong quá trình luân chuyển qua biên giới.
Trước khi vòng đàm phán Uruguay ra đời, các mối liên kết giữa đầu tư và thương mại ít được quan tâm trong khuôn khổ GATT. Tại Hiến chương Havana năm 1948, cũng đã có một chương quy định về đầu tư nước ngoài, tuy nhiên Hiến chương này đã không được phê chuẩn và chỉ có một số chính sách về thương mại được đưa vào Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – GATT. Cho tới năm
1955, các bên tham gia GATT đã thông qua Nghị quyết về đầu tư phát triển kinh tế quốc tế, trong đó các vấn đề về đầu tư được đề cập tới đặc biệt là việc bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài, bằng việc kêu gọi các nước ký kết các hiệp định song phương trong đó có điều khoản bảo đảm, bảo vệ tài sản cho nhà đầu tư nước ngoài.
Có thể thấy rằng sự ra đời của Hiệp định TRIMs gắn liền với nhiều cuộc tranh luận của các thành viên phát triển và thành viên đang phát triển, chủ yếu liên quan tới những hạn chế hoặc lợi ích có được khi sử dụng TRIMs. Một mặt, thành viên phát triển cho rằng TRIMs cần phải được loại bỏ bởi vì có những ảnh hưởng không tốt đến thương mại quốc tế, làm ảnh hưởng tiêu cực tới xuất nhập khẩu. Các thành viên phát triển, đều là các nước có nền công nghiệp tiên tiến, với nhiều công ty đa quốc gia, hàng hóa của họ vươn tới các thị trường trên toàn thế giới. Mặt khác, thành viên đang phát triển lập luận rằng, cần thiết phải sử dụng một số biện pháp nhằm định hướng nguồn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, tránh sự độc quyền từ các sản phẩm của thành viên phát triển.
Thật vậy, sự phát triển quan trọng nhất đối với đầu tư trong giai đoạn trước khi vòng đàm phán Uruguay đó là phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp trong vụ việc liên quan tới Hoa Kỳ và Canada. Bị đơn: Canada – Các biện pháp hành chính của Luật Đầu tư nước ngoài (Administration of the Foreign Investment Review Act – FIRA). Đây là một vụ tranh chấp trong khuôn khổ GATT, Hoa Kỳ cho rằng Canada đã áp đặt một số điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài để được phê duyệt các dự án đầu tư. Thông qua các thỏa thuận hoặc yêu cầu gắn liền với việc sử dụng một số sản phẩm trong nước (yêu cầu nội địa hóa) và việc xuất khẩu phải đạt tỷ lệ nhất định hoặc tỷ lệ phần trăm theo sản lượng (yêu cầu thực hiện xuất khẩu). Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp kết luận rằng yêu cầu nội địa hóa của Canada không phù hợp với nghĩa vụ đối xử quốc gia theo Điều III: 4 của GATT; nhưng yêu cầu về hoạt động xuất khẩu không trái với nghĩa vụ của GATT. Quyết định của Hội đồng xét xử quan trọng ở chỗ nó khẳng định rằng việc áp đặt cũng như sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa trong nước là vi phạm nghĩa vụ theo GATT. Đồng thời, kết luận của ban hội thẩm khẳng định các yêu cầu thực hiện
xuất khẩu không nằm trong phạm vi của GATT. Vòng đàm phán Uruguay về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đã được đánh dấu bởi sự bất đồng mạnh mẽ giữa các thành viên trong phạm vi và tính chất của các nguyên tắc. Trong khi một số nước phát triển đã đề xuất quy định rằng cần phải loại bỏ một loạt các biện pháp yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa bởi vì không phù hợp với Điều III của GATT, ngược lại nhiều nước thành viên đang phát triển phản đối điều này.
Tuy nhiên các thỏa thuận sau này về cơ bản đã được giới hạn trong việc giải thích và làm rõ việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại theo quy định của GATT trong phạm vi Điều III đối xử quốc gia đối với hàng hóa nhập khẩu và Điều XI các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Chính vì
vâỵ , Hiêp
định TRIMs luôn có mối quan hệ mật thiết , gắn bó v ới Hiêp
định GATT
(trong pham
vi Điều III và Điều XI). Khi viên
dân
quy định của Hiệp định TRIMs,
các bên không thể không c ăn cứ vào quy định của Hiêp
định GATT. Ngược lai để
làm rõ hơn nôi
dung của GATT (trong pham
vi Điều III và Điều XI) các bên cần phải
dân
chiếu tới quy định của TRIMs để giải thích và làm rõ quy định của GATT.
1.1.2. Nội dung của Hiệp định TRIMs
Như đã trình bày ở trên, TRIMs về cơ bản là một Hiệp định nhằm mục đích
giải thích và làm rõ về việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại trong phạm vi Điều III và Điều XI của GATT 1994. Vì vậy, nội dung của TRIMs khá ngắn gọn, bao gồm 09 Điều khoản quy định về việc thực hiện TRIMs và một phụ lục bao gồm danh mục minh họa các biện pháp không phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia tại Điều III và hạn chế định lượng tại Điều XI của GATT 1994, nhằm tạo ra sự bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Phạm vi áp dụng
Phạm vi áp dụng của TRIMs “chỉ áp dụng đối các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại hàng hóa” [55, Điều 1]. Vì vậy, có thể thấy rằng TRIMs chỉ áp dụng đối với hàng hóa, không áp dụng cho dịch vụ.
Hiệp định TRIMs không quy định cụ thể thế nào là “các biện phá đầu tư liên quan tới thương mại” bởi vậy trong quá trình giải quyết tranh chấp, Ban hội thẩm sẽ
có một phần đưa ra những phân tích, đánh giá liệu các biện pháp mà các bên đưa ra có phải là “biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại” hay không.
Ví dụ, Báo cáo của Ban hội thẩm trong vụ việc liên quan tới Indonesia – Các biện pháp ảnh hưởng tới ngành công nghiệp ô tô. Ban hội thẩm nhận định, “Các biện pháp đầu tư” mà Indonesia sử dụng nhằm mục đích khuyến khích sự phát triển năng lực ngành sản xuất ô tô và sản xuất các loại phù tùng tại Indonesia. Gắn liền với mục tiêu này là những biện pháp tác động đáng kể tới đầu tư trong ngành công nghiệp sản xuất ô tô, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh; khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô và các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước (sản xuất linh kiện ô tô); khuyến khích việc chuyển giao công nghệ, góp phần tạo việc làm trên diện rộng; tăng tỉ lệ nội địa hóa. Ban hội thẩm nhấn mạnh rằng, họ không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về đầu tư mà chỉ xem xét cách thức mà các vấn đề được đề cập có liên quan tới đầu tư như thế nào. Ban hội thẩm cũng cho rằng các biện pháp trên dù không do cơ quan chức năng có thẩm quyền về đầu tư quy định (theo lập luận của Indonesia) nhưng vẫn được coi là các biện pháp liên quan tới đầu tư [60, tr. 342].
Như vậy, có thể thấy rằng “các biện pháp đầu tư” trong trường hợp này có thể là những yêu cầu, hoặc những biện pháp pháp lý, biện pháp hành chính (các cách thức) được sử dụng có tác động và làm ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài, nó có thể không do cơ quan có thẩm quyền về đầu tư quyết định.
Tiếp theo, thuật ngữ “liên quan tới thương mại” được hiểu là nếu các biện pháp trên được sử dụng làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp sự luân chuyển hàng hóa qua biên giới (ví dụ: áp đặt hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu; yêu cầu cân đối tỉ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu; hoặc cụ thể như yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, đồng nghĩa với việc thành viên đó đã ưu tiên sử dụng các sản phẩm trong nước), vì vậy các biện pháp này ảnh hưởng tới thương mại đặc biệt là hàng hóa.
Tóm lại, có thể hiểu rằng “các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại” là những yêu cầu, biện pháp có tác động, làm ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại hàng hóa, tới đầu tư nước ngoài, tới sự luân chuyển hàng hóa qua biên giới. Làm phương hại tới lợi ích của các quốc gia thành viên theo các hiệp định có liên quan.
Nguyên tắc đối xử quốc gia và quy định về hạn chế định lượng
Điều 2.1 của TRIMs quy định rằng “các quốc gia thành viên không được sử dụng TRIMs trái với quy định tại Điều III và Điều XI của GATT 1994”. Các biện pháp này được làm rõ thông qua một danh sách các biện pháp minh họa tại phụ lục của TRIMs [55, Điều 2.2], bao gồm những biện pháp mang tính bắt buộc hoặc được thực thi thông qua luật trong nước hoặc các quyết định mang tính hành chính hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ những điều kiện này mới được hưởng một ưu đãi nào đó.
Điều III của GATT quy định về nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế và các quy tắc trong nước, chủ yếu đề cập tới vấn đề mua hoặc sử dụng các sản phẩm của doanh nghiệp. Theo đó các sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự ở trong nước về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa; bao gồm cả việc áp đặt các khoản thuế và phí cao hơn đối với các sản phẩm tương tự trên thị trường nội địa; áp dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp yêu cầu sử dụng các sản phẩm trong nước, yêu cầu đạt được tỉ lệ nội địa hóa nhất định.
Tuy nhiên nguyên tắc này đòi hỏi cần một số yếu tố sau:
- Các sản phẩm được nhập khẩu, và có “các sản phẩm tương tự” ở trong nước;
- Các biện pháp có thể là “luật, quy định, quyết định hành chính hoặc yêu cầu tác động đến bán hàng, chào bán, mua, vận chuyển, phân phối hoặc sử dụng”; và
- Các sản phẩm nhập khẩu bị đối xử “kém thuận lợi” hơn sự đối xử dành cho các sản phẩm nội địa.
Khoản 1 (a) của Danh mục minh họa [55, phụ lục] bao gồm các nội dung về yêu cầu của địa phương: yêu cầu mua hoặc sử dụng hàng hóa bởi một doanh nghiệp nội địa hoặc hàng hóa có xuất xứ từ nguồn nước (yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa); trong khi Khoản 1 (b) bao gồm yêu cầu về cân bằng thương mại, trong đó việc hạn chế mua (theo giá trị) hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu của doanh nghiệp phải tương đương với số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất