3.1. Các hình thức tín dụng xuất khẩu
3.1.1. Các hình thức cho vay
Cho vay trực tiếp
Đây là hình thức cổ điển nhất và cũng là hình thức cơ sở cho các hình thức tín dụng khác ra đời và phát triển.
Cho vay trực tiếp là việc ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng trong một thời gian vói những điều kiện và nguyên tắc nhất định như: sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả gốc và lãi đúng hạn, có đảm bảo tiền vay… Trong hình thức này gồm có: cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm); cho vay trung hạn (từ một đến dưới 5 năm) và cho vay dài hạn (từ 5 năm trở lên).
Đối với nhà xuất khẩu, hình thức tín dụng này được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các chi phí vận chuyển, thuế, bảo hiểm lô hàng xuất khẩu... Để khuyến khích xuất khẩu, các ngân hàng thường áp dụng các điều kiện ưu đãi như lãi suất ưu đãi, ưu đãi về các điều kiện tín dụng...
Hiện nay đang phát triển hình thức cho vay hợp vốn – một hình thức đồng tài trợ, trong đó hai hay nhiều ngân hàng cùng góp vốn cho vay đối với một dự án. Cho vay hợp vốn phát triển do ngày càng xuất hiện nhiều dự án quy mô lớn, nhu cầu vốn tăng cao mà khả năng cho vay một ngân hàng riêng lẻ không đáp ứng đủ hoặc do nhu cầu phân tán rủi ro của ngân hàng mà cần tới sự tham gia góp vốn của nhiều ngân hàng khác nhau.
Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection)
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền của người mua, căn cứ vào hối phiếu do người bán ký phát và bộ chứng từ gửi hàng kèm theo.
Với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu, thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng để người mua đi nhận hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 1
- Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - 2
- Một Số Hình Thức Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Khác
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Phát Triển Tín Dụng Xuất Nhập Khẩu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu Trong Nước
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng cho vay bằng cách ứng trước giá trị hối phiếu nhờ thu cho nhà xuất khẩu khi nhà xuất khẩu giao hối phiếu chưa được chấp nhận cho ngân hàng. Hình thức tài trợ này cho phép nhà xuất khẩu mau chóng nhận được tiền đưa vào sản xuất kinh doanh thay vì phải chờ đến khi hối phiếu được nhà nhập khẩu nước ngoài tiếp nhận và thanh toán.
Mức tài trợ này của ngân hàng tuỳ thuộc vào mức độ an toàn trong giao dịch và thoả thuận với khách hàng, thông thường là 80 – 90% mệnh giá hối phiếu. Khi tài trợ theo phương thức này, ngân hàng tuy không được chuyển quyền sở hữu và thụ hưởng giá trị hối phiếu, song vẫn có quyền truy đòi nhà xuất khẩu bồi hoàn giá trị tài trợ nếu nhà nhập khẩu nước ngoài từ chối thanh toán.
Khi nhận được tiền thanh toán của nhà nhập khẩu từ ngân hàng thu hộ, ngân hàng tài trợ sẽ tính lãi cho vay theo thời hạn từ lúc mua hối phiếu đến khi nhận đc tiền thanh toán – toàn bộ nợ gốc lẫn lãi sẽ được khấu trừ ngày vào số tiền thu được hoặc ghi nợ vào tài khoản của nhà xuất khẩu. Xét về khía cạnh kỹ thuật tài trợ, nghiệp vụ này rất giống với dạng tài trợ cổ điển cho vay từng lần và thu lãi cuối kỳ.
Cho vay trong phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credit)
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng nước người nhập khẩu) theo yêu cầu của nhà nhập khẩu (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu (người hưởng lợi thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát trong phạm vi số tiền đó với điều kiện nhà xuất khẩu trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với yêu cầu đề ra trong thư tín dụng (L/C).
Căn cứ vào L/C mở cho nhà xuất khẩu hưởng lợi, ngân hàng nước người xuất khẩu có thể tiến hành thẩm định để cho vay.
Chỉ khi xuất hàng lập bộ chứng từ gửi hàng phù hợp với L/C nhà xuất khẩu mới nhận được thanh toán (nếu là L/C trả ngay) và có khi phải sau một thời gian (nếu là L/C trả chậm), trong khi nhà xuất khẩu lại cần vốn để sản xuất. Để giải quyết nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu có thể xin cấp tín dụng từ ngân hàng dựa trên cơ sở L/C mở cho anh ta hưởng. Khi có thông báo về L/C mở cho nhà xuất khẩu hưởng lợi nghĩa là anh ta đã được đảm bảo thanh toán từ một ngân hàng nếu xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Nhà xuất khẩu sẽ dùng L/C như một công cụ đảm bảo xin vốn vay của ngân hàng. Hình thức tín dụng này bao hàm nhiều rủi ro đối với ngân hàng nên ngân hàng chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt và hoạt động xuất khẩu đều đặn.
3.1.2. Các hình thức chiết khấu
Chiết khấu hối phiếu
Chiết khấu hối phiếu là một dạng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng cho người thụ hưởng hối phiếu, theo đó người thụ hưởng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và phí. Loại tài trợ này giúp cho nhà xuất khẩu có điều kiện thu hồi vốn nhanh để đưa vào sản xuất kinh doanh thay vì phải chờ hối phiếu đến hạn thanh toán.
Tín dụng chiết khấu hối phiếu ngoại thương thường áp dụng cho các giao dịch xuất nhập khẩu thanh toán bằng phương thức ghi sổ. Trong đó nhà xuất khẩu cấp tín dụng thương mại (bán hàng trả chậm) cho nhà nhập khẩu nước ngoài dưới hình thức hối phiếu trả chậm do nhà xuất khẩu ký phát yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Để được ngân hàng xem xét tài trợ chiết khấu, hối phiếu trả chậm này phải được người mua ký chấp
nhận lên bề mặt hối phiếu, thừa nhận món nợ phải trả cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn.
Kỹ thuật tài trợ chiết khấu khá đơn giản. Ngân hàng sẽ mua lại quyền thụ hưởng giá trị hối phiếu khi đến hạn thanh toán từ người thụ hưởng hợp pháp thể hiện trên bề mặt hối phiếu. Số tiền mua lại (giá trị chiết khấu) được tính như sau:
Md = M x [1- (Rd x t/360)] – C
Trong đó:
+ Md: Giá trị chiết khấu
+ M: Mệnh giá hối phiếu
+ t: Thời hạn chiết khấu (Thời hạn còn lại của hối phiếu) (ngày)
+ Rd: Lãi suất chiết khấu theo năm
+ C: Lệ phí (Phí hoa hồng nghiệp vụ...)
Trong các yếu tố trên, lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn. Nó phụ thuộc vào khả năng truy đòi khách hàng nhận tài trợ (nhà xuất khẩu), khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn hiệu lực còn lại của hối phiếu, mệnh giá và đồng tiền của hối phiếu...
Trong nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu, ngân hàng tài trợ luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của con nợ chấp nhận hối phiếu. Chính vì vậy, ngân hàng thường áp dụng lãi suất chiết khấu ở mức cao và phòng chống rủi ro không thu hồi được tiền khi đáo hạn bằng cách bảo lưu “quyền truy đòi” đối với nhà xuất khẩu. Trong một số giao dịch thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có khi yêu cầu ngân hàng của họ ký chấp nhận ghi nợ hối phiếu, nhờ vậy làm tăng uy tín thanh toán của hối phiếu. Trong trường hợp này, khi nhà xuất khẩu mang hối phiếu này đến ngân hàng yêu cầu được chiết khấu thì lãi suất chiết khấu áp dụng thường thấp và điều kiện tài trợ cũng hết sức ưu đãi cho nhà xuất khẩu;
chẳng hạn như: mức tài trợ chiết khấu không tính vào hạn mức tín dụng của nhà xuất khẩu, chiết khấu với điều kiện miễn truy đòi...
Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này, ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự như chiết khấu hối phiếu. Tỷ lệ chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu. Có hai hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu miễn truy đòi: là hình thức chiết khấu mà ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của người xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ do ngân hàng tính trừ lại phí chiết khấu trong thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhập khẩu. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là nhà xuất khẩu đã bán bộ chứng từ cho ngân hàng và không có trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm đòi tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng, ngân hàng không có quyền truy đòi nhà xuất khẩu nếu bộ chứng từ không được thanh toán. Các ngân hàng Việt Nam ít sử dụng hình thức này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng và lãi suất chiết khấu trong trường hợp này thường cao.
- Chiết khấu có truy đòi: trường hợp này trách nhiệm của nhà xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng thu được tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu. Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ vẫn có quyền truy đòi nhà xuất khẩu nếu bộ chứng từ không được thanh toán. Lãi suất chiết khấu trong trường hợp này thấp hơn trường hợp chiết khấu miễn truy đòi vì rủi ro ngân hàng phải chịu sẽ thấp hơn.
Hiện nay đa số các ngân hàng thực hiện hình thức chiết khấu có truy đòi.
3.1.3. Các hình thức bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là một cam kết bằng văn bản của người phát hành bảo lãnh (ngân hàng thương mại) – gọi là người bảo lãnh với người thụ hưởng
bảo lãnh đó. Trong đó người bảo lãnh cam kết sẽ bồi hoàn một khoản tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh vi phạm những nghĩa vụ của họ được quy định trong chứng thư bảo lãnh.
Một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh là tính độc lập của nó, nghĩa là nếu các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được đáp ứng thì ngân hàng phải thanh toán cho bên thụ hưởng mà không viện dẫn những biện hộ phát sinh từ quan hệ hợp đồng mua bán giữa bên thụ hưởng vào bên được bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò ngăn chặn những rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động ngoại thương, đồng thời bù đắp những thiệt hại về mặt tài chính cho người thụ hưởng, giúp họ yên tâm hơn khi bước vào kinh doanh. Đối với người được bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng giúp nâng cao uy tín của họ trong kinh doanh.
Đối với tín dụng xuất khẩu, người được bảo lãnh là nhà xuất khẩu, người bảo lãnh là ngân hàng của nhà xuất khẩu và người thụ hưởng bảo lãnh là nhà nhập khẩu. Khi nhà nhập khẩu không tin cậy hoàn toàn vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhà xuất khẩu, họ sẽ nhờ vào bảo lãnh ngân hàng.
Dưới đây là một số hình thức bảo lãnh ngân hàng thường gặp trong xuất khẩu.
Bảo lãnh tiền ứng trước (Advance payment Guarantee)
Thông thường trong những hợp đồng thương mại có giá trị lớn, để giúp nhà xuất khẩu có vốn làm hàng và nhanh chóng giao hàng cho mình, nhà nhập khẩu có thể cung cấp một khoản tiền ứng trước cho nhà xuất khẩu. Để tránh rủi ro, nhà nhập khẩu cũng yêu cầu nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình phát hành một bảo lãnh về khoản tiền đó, gọi là bảo lãnh tiền ứng trước.
Loại bảo lãnh này nhằm đảm bảo cho nhà nhập khẩu được nhận lại số tiền ứng trước (đôi khi kể cả tiền lãi) trong trường hợp nhà xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng như quy định trong hợp đồng.
Đối với những loại hàng hoá có thời gian sản xuất lâu như máy móc thiết bị, đòi hỏi giao hàng nhiều lần, nên quy định trong thư bảo lãnh là: sau mỗi lần giao hàng, trị giá thư bảo lãnh sẽ giảm theo tỷ lệ tương ứng của từng lần giao hàng. Để chứng minh hàng đã được giao, nhà xuất khẩu phải xuất trình bộ chứng từ giao hàng cho ngân hàng sau mỗi đợt giao hàng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee)
Loại bảo lãnh này thường hay được sử dụng nhất. Trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng, ngân hàng cam kết trả cho nhà nhập khẩu một số tiền nhất định, thường là 5-10% giá trị hợp đồng nếu nhà xuất khẩu không thực hiện, thực hiện không đúng, hoặc thực hiện chậm thời gian nghĩa vụ hợp đồng. Số tiền này nhằm bồi thường cho những chi phí nảy sinh đối với nhà nhập khẩu, ví dụ như chi phí tìm bạn hàng cung ứng mới, chi phí phát sinh do chậm có hàng sử dụng... Bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường có hiệu lực cho tới khi nghĩa vụ hợp đồng được hoàn thành và có khi kéo dài tới khi hết thời hạn khiếu nại của hợp đồng.
Bảo lãnh tiền giữ lại (Retention money Guarantee)
Để hạn chế rủi ro sau khi giao hàng, nhà nhập khẩu có thể thỏa thuận về số tiền được giữ lại sau mỗi lần thanh toán cho nhà xuất khẩu. Tổng số tiền người nhập khẩu giữ lại có thể lên tới 10% giá trị hợp đồng. Nếu nhà xuất khẩu muốn được thanh toán ngay toàn bộ tiền hàng thì cần xuất trình thư bảo lãnh của ngân hàng cho số tiền giữ lại đó.
Như vậy việc bảo lãnh tiền giữ lại cho phép người bán nhận được tổng số tiền của hợp đồng, còn người mua thay cho việc giữ lại tiền sẽ được ngân hàng phát hành bảo lãnh đảm bảo hoàn lại số tiền bảo lãnh trong trường hợp xảy ra rủi ro sau khi giao hàng.
Bảo lãnh bảo hành (Maitainance Guarantee)
Bảo lãnh bảo hành thường đi kèm với các hợp đồng xây dựng hay hợp đồng dây chuyền thiết bị cho nhà máy. Mục đích bảo lãnh nhằm đảm bảo rằng nhà xuất khẩu vẫn chịu trách nhiệm về máy móc thiết bị mình cung ứng trong thời gian bảo hành. Thông thường các hợp đồng mua bán thiết bị từ nước ngoài bao giờ cũng có điều khoản về bảo hành nhưng có không ít trường hợp bên mua không có biện pháp buộc bên bán phải thực hiện hoàn chỉnh nghĩa vụ của mình do những điều kiện khách quan về khoảng cách địa lý giữa hai bên. Bảo lãnh bảo hành đảm bảo người mua sẽ không bị thiệt hại, nhất là khi đặt mua những thiết bị hiện đại, giá trị cao. Bảo lãnh này còn có thể thay thế cho bảo lãnh tiền giữ lại.
Bảo lãnh sai sót bộ chứng từ nhờ thu (Discrepancy Guarantee)
Theo đề nghị của nhà xuất khẩu, ngân hàng cam kết với nhà nhập khẩu bù đắp những thiệt hại phát sinh trong khuôn khổ phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình chứng từ không phù hợp hoàn toàn với những điều khoản của hợp đồng mua bán và số lượng chứng từ thiếu không được gửi tiếp theo.
Thư tín dụng dự phòng (Stand-by Letter of Credit)
Thông thường ngân hàng nhà nhập khẩu mở L/C thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, nhưng có trường hợp nhà xuất khẩu nhận được L/C rồi nhưng không có khả năng giao hàng. Để đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ phát hành một thư tín dụng dự phòng, trong đó cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp nhà xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã mở.
Thư tín dụng dự phòng là một hình thức bảo lãnh vì nó thể hiện cam kết của ngân hàng phát hành bồi thường cho bên hưởng lợi khi có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
3.2. Các hình thức tín dụng nhập khẩu