Đối Tượng Nghiên Cứu Và Phạm Vi Nghiên Cứu 34153


sinh học cao, có giá trị lớn về kinh tế, khoa học và môi trường. Để bảo vệ tính đa dạng sinh học, nhất là những rạn san hô và thảm cỏ biển, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Kiên Giang đã thành lập Khu bảo tồn biển (KBTB) Phú Quốc nhằm bảo tồn, tổ chức khai thác giá trị tài nguyên và môi trường vùng biển này theo đúng quy định của pháp luật, gồm 2 khu vực: khu phía Đông Bắc đảo Phú Quốc và khu phía Nam quần đảo An Thới. KBTB Phú Quốc là một trong hệ thống 12 khu bảo tồn biển hiện nay ở Việt Nam và là một trong những vùng lõi của Khu Dự trữ sinh quyển Kiên Giang với nhiều hệ sinh thái (HST) biển điển hình như rạn san hô, cỏ biển và tính đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm, đặc biệt là có loài Dugon (Bò biển) và rùa biển.

Hiện nay đa dạng sinh học ở KBTB Phú Quốc đã và đang bị suy thoái bởi tác động của hoạt động phát triển kinh tế xã hội (KT-XH), trong đó có tác động sinh kế truyền thống của cộng đồng. Tác động của chất thải sinh hoạt từ các khu dân cư, dư thừa thuốc trừ sâu và phân hoá học từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thức ăn dư thả từ bè nuôi trồng thuỷ sản và đặc biệt là hoạt động đánh bắt thuỷ sản, khai thác rạn san hô, cỏ biển của dân cư sống ở vùng đệm KBTB đã đe doạ trực tiếp đến đa dạng sinh học cũng như môi trường sống (sinh cảnh) của nhiều loài sinh vật quý hiếm, thậm chí là Bò biển (Dugon), rùa biển, … ở KBTB.

Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên được xác định là do cuộc sống của người dân ở vùng đệm KBTB Phú Quốc cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào sinh kế truyền thống là nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản cho dù du lịch ở Phú Quốc nói chung và tại KBTB Phú Quốc nói riêng tương đối phát triển. Nói một cách khác cho đến nay ở KBTB Phú Quốc vẫn chưa có được mô hình phát triển sinh kế mới, đặc biệt là sinh kế dựa vào du lịch cho cộng đồng, để cộng đồng có thể có được cơ hội chuyển đổi sinh kế và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó giảm sức ép đến môi trường và đa dạng sinh học. Chính vì vậy cần thiết phải nghiên cứu và phát triển mô hình du lịch mà ở đó người dân có thể tham gia, chuyển đổi sinh kế và hưởng lợi từ du lịch.


Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu ở cả trong nước và trên thế giới đã chứng minh được rằng cộng đồng địa phương đóng góp một phần không nhỏ vào phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường và là chủ thể để phát triển du lịch. Tuy vậy, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về mô hình DLCĐ tại KBTB Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Vì vậy để giải quyết các vấn đề nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng ở Khu Bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang” cho hướng nghiên cứu của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu


2.1. Mục tiêu tổng quát

Phát triển du lịch cộng đồng ở Khu bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

2.2. Mục tiêu cụ thể

-Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về du lịch cộng đồng.

Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng ở Khu Bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - 3

-Đánh giá thực trạng của du lịch cộng đồng ở Khu bảo tồn biển Phú Quốc.

-Đề xuất các giải pháp để phát triển du lịch cộng đồng.


3. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu


3.1.Đối tượng nghiên cứu

Từ nghiên cứu thực trạng để đưa ra các giải pháp phát triển du lịch cộng đồng ở Khu bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

3.2.Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Khu bảo tồn biển Phú Quốc thuộc huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Về thời gian: sử dụng nguồn dữ liệu nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2015. Số liệu sơ cấp được thực hiện từ tháng 02/2017 đến tháng 07/2017.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp thu thập số liệu


* Số liệu thứ cấp

Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát và thu thập tài liệu: Đây là phương pháp truyền thống nhằm thu thập các số liệu thứ cấp đáng tin cậy nhằm đánh giá các nguồn lực để phát triển du lịch nói chung và phát triển mô hình DLCĐ nói riêng tại địa bàn nghiên cứu. Nguồn thông tin được thu thập từ các đề tài nghiên cứu, báo cáo khoa học của các sở, ban, ngành, địa phương, sách báo và các phương tiện truyền thông.

* Số liệu sơ cấp:

Dựa trên kết quả của nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng sẽ được thực hiện bằng cách tiến hành thu thập số liệu nghiên cứu thông qua điều tra, khảo sát bằng bảng câu hỏi kèm theo thang đo. Sau khi bảng câu hỏi khảo sát được tiến hành qua các bước:

- Thực hiện việc điều tra khảo sát.

- Nhận kết quả điều tra khảo sát.

- Xử lý số liệu khảo sát trên phần mềm Excel để tính toán tần suất làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng trong chương 2 và đề ra giải pháp ở chương 3.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điều tra khảo sát và thu thập tài liệu:

Đây là phương pháp truyền thống nhằm thu thập các số liệu thứ cấp đáng tin cậy nhằm đánh giá các nguồn lực để phát triển du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng tại địa bàn nghiên cứu.

- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và đánh giá:

Được sử dụng để thống kê, so sánh, đánh giá các số liệu thực trạng phát triển du lịch thông qua các chỉ tiêu thống kê ngành. Thông qua việc phân tích, so sánh, tổng hợp, mô hình hoá và cân đối: các dữ liệu thu thập từ các phương pháp trên sẽ được xử lý, sắp xếp một cách hợp lý, hệ thống nhằm đảm bảo tính chính xác, logic, xúc tích khoa học, giáo dục và thực tiễn nhằm xây dựng mô hình lý thuyết.


- Phương pháp chuyên gia:

Để thực hiện đề tài luận văn, tác giả có tham vấn ý kiến của nhiều chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng.

- Phương pháp thực địa:

Nhằm mục đích kiểm tra chỉnh lý và bổ sung tư liệu; đối chiếu và lên danh mục cụ thể các đối tượng nghiên cứu; sơ bộ đánh giá các thực trạng trong chương 2.

Tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học dựa vào các bảng câu hỏi đóng/ mở nhằm khảo sát ý kiến của cộng đồng cư dân, du khách, công ty lữ hành về các vấn đề cho phát triển DLCĐ tại địa bàn nghiên cứu. Sau đó xử lý các số liệu sơ cấp thu thập và thông qua các phần mềm Excel làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng trong chương 2 và đề ra giải pháp ở chương 3.

5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

5.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu

Việc xây dựng mô hình, các kiến nghị và tìm ra giải pháp phát triển DLCĐ nhằm giảm áp lực cho môi trường tự nhiên do chính cộng đồng tạo nên, tạo thêm sinh kế, cơ hội việc làm cho cộng đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học, góp phần phát triển kinh tế xã hội.

Đề tài góp phần củng cố những lý luận về DLCĐ cho việc phát triển DLCĐ các vùng ven biển, các KBTB.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu góp phần giúp KBTB Phú Quốc có cái nhìn nhận tổng quan về công tác phát triển du lịch cộng đồng.

Khảo sát về nhu cầu cho phát triển DLCĐ và khảo sát đánh giá nguồn lực thực tiễn phát triển DLCĐ tại KBTB Phú Quốc, các KBTB khác có thể tham khảo kết quả nghiên cứu của đề tài trong quá trình nghiên cứu nâng cao về mô hình du lịch cộng đồng tại địa phương mình.


6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận gồm ba chương như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch cộng đồng.

Chương 2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại khu bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch cộng đồng ở khu bảo tồn biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG


1.1. Các vấn đề cơ bản về du lịch cộng đồng

1.1.1. Khái niệm

Khái niệm “Du lịch cộng đồng” xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất cho khái niệm này.

Do có những quan điểm nghiên cứu, góc nhìn khác nhau về vị trí của du lịch cộng đồng mà cho đến nay còn tồn tại khá nhiều ý kiến, khái niệm về vấn đề này, những khái niệm này được sử dụng khá linh hoạt và được thay đổi tuỳ thuộc vào tác giả, địa điểm và các dự án cụ thể, song các vấn đề về bền vững và cộng đồng địa phương (điển hình ở khu vực nông thôn, những người nghèo và ở vùng sâu vùng xa) là những nội dung chính được đề cập, xem xét.

Theo Nicole Hausle và Wolffang Strasdas (2000): “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”.

Ở Thái Lan khái niệm Community Based Tourism - Du lịch dựa vào cộng đồng được định nghĩa: “DLCĐ là du lịch có tính đến tính bền vững về mặt môi trường, văn hóa và xã hội. Nó do chính cộng đồng quản lý và làm chủ vì lợi ích của cộng đồng vì mục đích tạo cho du khách có khả năng nhận thức và tìm hiểu về cộng đồng và lối sống của cộng đồng” (REST, 1997).

Còn Tổ chức mạng lưới du lịch cộng đồng vì người nghèo đã nêu: “DLCĐ là một loại hình du lịch bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo trong môi trường cộng đồng. Các sáng kiến của DLCĐ nhằm vào mục tiêu thu hút sự tham gia của người dân địa phương vào việc vận hành và quản lý các dự án du lịch nhỏ như một phương tiện giảm nghèo và mang lại thu nhập thay thế cho cộng đồng. Các sáng kiến của DLCĐ còn khuyến khích tôn trọng các truyền thống và văn hóa địa phương cũng như các di sản thiên nhiên”. (Dauglas Hainsworth, Walter Jamieson, 2007)


Tại Việt Nam, cũng có nhiều nhà nghiên cứu đề cập về DLCĐ. Tác giả Võ Quế (2006) đã nhìn nhận: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch, đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên”. Bên cạnh nội dung xem xét phát triển DLCĐ là phương thức góp phần đẩy mạnh tính hiệu quả trong công tác bảo tồn, tác giả Bùi Thị Hải Yến (2012) còn đề cập đến việc tham gia của cộng đồng địa phương như sau: “DLCĐ có thể hiểu là phương thức phát triển bền vững mà ở đó cộng đồng địa phương có sự tham gia trực tiếp và chủ yếu trong các giai đoạn phát triển và mọi hoạt động du lịch. Cộng đồng nhận được sự hợp tác, h trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế; của chính quyền địa phương cũng như chính phủ và nhận được phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch nhằm phát triển cộng đồng, bảo tồn khai thác tài nguyên môi trường du lịch bền vững, đáp ứng các nhu cầu du lịch phong phú, có chất lượng cao và hợp lý của du khách”.

Ngoài ra còn nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau, tuy nhiên có thể thống nhất và hiểu du lịch cộng đồng là loại hình du lịch bền vững dựa vào cộng đồng địa phương. Du lịch cộng đồng là một cách tiếp cận nhằm tạo ra lợi nhuận cao nhất cho người dân địa phương, những người sử dụng du lịch như một công cụ tạo nguồn lợi kinh tế. Du khách phải trả tiền khi họ đến tham quan khu vực và khoản tiền này được sử dụng để bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên và giúp phát triển KT-XH của địa phương đó.

Căn cứ vào những nội hàm về du lịch cộng đồng kể trên, Phạm Trung Lương (2010) đã đưa ra khái niệm tổng quát:

“Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mang lại cho du khách những trải nghiệm về bản sắc cộng đồng địa phương, trong đó cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch, được hưởng lợi ích KT-XH từ hoạt động du lịch và có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên, môi trường, bản sắc văn hóa của cộng đồng”.


Mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch khác nhau tùy thuộc vào vai trò của cộng đồng:

Mức độ thụ động: Đây là mức độ thấp nhất đối với sự tham gia của cộng đồng, theo đó cộng đồng chỉ được xem là đối tượng du lịch (tài nguyên) và hầu như không có vai trò gì đối với hoạt động phát triển du lịch. Trong trường hợp này các công ty du lịch sẽ đưa điểm quần cư cộng đồng với những yếu tố chính là con người, lối sống cộng đồng, văn hóa, tín ngưỡng, kiến trúc quần cư, ...) vào chương trình du lịch và coi đó là một điểm đến để đưa khách đến tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm về con người, văn hóa, lối sống của cộng đồng. Cộng đồng không có vai trò gì (tham gia thụ động) đối với kế hoạch phát triển du lịch và hầu như không được hưởng lợi ích từ hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch trong trường hợp cộng đồng tham gia một cách thụ động thường được gọi là “Du lịch tham quan cộng đồng”

Mức độ tham gia: theo đó cộng đồng tham gia cung cấp một số dịch vụ (bán hàng lưu niệm, dịch vụ ăn uống, ...) tại điểm du lịch nơi cộng đồng sinh sống và qua đó được hưởng một số lợi ích về vật chất. Trong trường hợp này, ngoài vai trò là “tài nguyên” như trên, cộng đồng đã có vai trò nhất định trong hoạt động du lịch và được hưởng một phần lợi ích trong chu i giá trị du lịch. Hoạt động du lịch trong trường hợp này thường được gọi là “Du lịch có sự tham gia của cộng đồng”

Mức độ chủ động: Đây là mức độ cao nhất đối với sự tham gia của cộng đồng, theo đó cộng đồng là chủ thể tổ chức và cung cấp dịch vụ và qua đó sẽ đêm đến cho du khách những trải nghiệm tốt về cộng đồng, về những giá trị tự nhiên và văn hóa nơi cộng đồng sinh sống. Trong trường hợp này các công ty du lịch sẽ chỉ đóng vai trò là đối tác của cộng đồng. Cộng đồng vừa có vai trò là “tài nguyên” vừa đóng vai trò là người tổ chức khai thác chính các giá trị “tài nguyên” đó. Trong trường hợp này hoạt động du lịch thường được gọi là “Du lịch dựa vào cộng đồng” hay “Du lịch cộng đồng”. Du lịch cộng đồng chính là hình thức nơi đảm bảo mức độ tham gia cao nhất của cộng đồng vào hoạt động du lịch. Tên gọi “Du lịch dựa vào cộng đồng” thường được sử dụng trong trường hợp muốn nhấn mạnh đến hình thái tổ chức hoạt động du lịch, theo đó cộng đồng là chủ thể tổ chức và cung cấp dịch vụ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/08/2022