Sự Gia Tăng Của Việc Sử Dụng Máy Vi Tính Và Internet

thông từ nay cho đến năm 2010 sẽ được huy động từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ cũng có chính sách sẽ loại bỏ dần chế độ kiểm soát thông tin bằng các bức tường lửa mà trước hết là tại các khu công nghệ cao và các công viên phần mềm.

Nghị định 55/CP ngày 23/8/2001, được coi là khung pháp lý quan trọng tạo cơ hội mới cho Internet Việt Nam phát triển. Trước khi nghị định 55/CP ra đời, chỉ có duy nhất một nhà cung cấp dịch vụ kết nối là VDC và các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) trên thị trường đều là các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay tình hình đã hoàn toàn thay đổi. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể trở thành ISP nếu được Tổng cục bưu điện cho phép. Trong năm 2002, Tổng cục bưu điện đã cấp giấy phép hoạt động cho 15 nhà cung cấp dịch vụ Internet mới, bổ sung vào đội ngũ các nhà cung cấp dịch vụ Internet trước đây là VDC, FPT, Netnam, Saigon Postel và Vietel. Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ Internet nước ngoài sẽ được phép tham gia vào thị trường Việt Nam từ năm 2002. Dự kiến, các nhà cung cấp dịch vụ Internet nước ngoài sẽ tham gia cạnh tranh với các nhà cung cấp trong nước trước cuối năm 2003. Ngày 2/5/2002, Tổng Cục Bưu Điện đã chính thức cấp giấy phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) cho hai nhà cung cấp mới là FPT và Vietel, chấm dứt sự tồn tại độc quyền của VDC trong vai trò IXP duy nhất trong gần 5 năm qua.

Như vậy, thị trường Internet đã thực sự cạnh tranh hơn và người sử dụng có lợi hơn.

Dịch vụ truy cập Internet công cộng phát triển mạnh ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo tầng lớp nhân dân tiếp cận và khai thác nguồn tri thức vô tận trên Internet. Sự tham gia của khu vực tư nhân thông qua các hình thức đại lý Internet hay các điểm truy nhập cà phê Internet với mức giá rẻ chỉ khoảng 3000 VND/ giờ

đã đã tạo điều kiện cho những người chưa có điều kiện nối mạng có thể dễ dàng truy cập vào Internet, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Hiện nay có 10 tỉnh, thành phố có thể truy cập trực tiếp và 61 tỉnh thành phố truy cập gián tiếp vào Internet. Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, cụ thể là VDC, đã đưa Internet đến tận các vùng nông thôn thông qua các trạm bưu điện văn hóa xã. Tính đến cuối năm 2001, đã có 12 điểm bưu điện văn hóa xã tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

Hiện tại, các ISP đang cạnh tranh gay gắt tập trung vào việc giảm giá cước thông qua các hình thức dịch vụ mới như VNN 1268, VNN 1269 và Internet thẻ (Inetrnet card). Hai hình thức này đã làm gia tăng đáng kể số lượng người sử dụng Internet. Trong vòng 3 tháng kể từ khi VDC giới thiệu dịch vụ VNN 1268 và VNN 1269, số lượng người sử dụng Internet tăng 17.700 người. Từ ngày 6/6/2001, FPT bắt đầu triển khai hình thức truy cập mạng trả tiền trước lần đầu tiên có ở Việt Nam. Không lâu sau đó, VDC cũng đưa ra các Internet card của mình. Tính hấp dẫn của Internet card là nó không tính cước thuê bao và phí hoà mạng và mức cước sử dụng Internet giảm 30- 70% (tùy thuộc thời điểm kết nối) so với hình thức thanh toán mà các nhà cung cấp dịch vụ Internet ở Việt Nam hiện đang áp dụng. Thành công của hình thức dịch vụ này thể hiện qua số lượng khách hàng sử dụng Internet đã tăng lên đáng kể. Chẳng hạn số lượng khách hàng sử dụng Internet card của FPT đã tăng 3 lần kể 1/7/2001. Theo hệ thống quản lý của FPT Internet, thời gian truy cập Internet của khách hàng cũng tăng lên gấp nhiều lần. Gần đây, VNPT bắt đầu giới thiệu tại Hà Nội, TPHCM và Hải phòng dịch vụ truyền dữ liệu tốc độ cao ISDN và ADSL cho tốc độ truy cập nhanh tương ứng gấp 2 lần và 40 lần dịch vụ thường, dành cho khách hàng là các doanh nghiệp và các tổ chức cần sử dụng Internet với tốc độ cao.

Internet ở Việt Nam đang phát triển với tốc độ rất nhanh, tạo điều kiện cho người dân và các tổ chức, doanh nghiệp trong nước tiếp cận ngày càng dễ dàng với phương tiện truyền thông hiện đại này. Theo kế hoạch phát triển Internet Việt Nam nằm trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005, từ nay cho đến năm 2005, chính phủ sẽ dành ưu tiên cho phát triển mạng lưới viễn thông và Internet hiện đại, an toàn và rộng khắp trên cả nước; phát triển cơ sở hạ tầng CNTT ở khu vực nông thôn; xây dựng xa lộ thông tin quốc gia tốc độ cao và dung lượng lớn; cung cấp các dịch vụ truy cập mạng băng truyền lớn (sử dụng công nghệ cáp quang, mạng không dây và vệ tinh,… ) cho mỗi hộ gia đình; và phát triển các dịch vụ và ứng dụng Internet như báo điện tử, TMĐT, quản lý điện tử,… Theo kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 đến năm 2005 sẽ có từ 3 đến 5 IXP, từ 30 đến 40 ISP cùng nhiều OSP được cấp giấy phép hoạt động, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước được kết nối bằng cáp quảng băng rộng. Năm 2010, xa lộ thông tin quốc gia nối tới tất cả các huyện và nhiều xã trong cả nước bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác. ít nhất 30% số thuê bao có khả năng truy cập viễn thông và Internet băng rộng.

2.2. Sự gia tăng của việc sử dụng máy vi tính và Internet

Theo thống kê của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho tới nay trên toàn quốc đã thiết lập và bước đầu sử dụng hệ thống thông tin quản lý tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở hầu hết các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ. Trong khi đó, các cơ quan Đảng và Nhà nước cũng đang từng bước ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và bước đầu xây dựng các hệ thống thông tin phục vụ quản lý và điều hành. ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Theo số liệu thống kê của Dự

án công nghệ thông tin Việt Nam- Canada thì mặc dù cơ sở hạ tầng cho CNTT của Việt Nam còn kém phát triển, nhưng mức độ sử dụng máy vi tính ngày càng tăng. Ước tính năng lực phần cứng đang tăng với tốc độ 20- 25%/ năm. Tính đến năm 1999 có đến 80% doanh nghiệp được điều tra ở TPHCM, 76% doanh nghiệp được điều tra ở Hà Nội và 66% doanh nghiệp điều tra ở Đà Nẵng và Cần Thơ có sử dụng máy tính. Khu vực nhà nước sử dụng 70% số máy tính hiện tại có tại Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Tính đến tháng 7 năm 2002, tổng số thuê bao Internet ở Việt Nam là 174.378, tăng hơn 250% so với năm 1997 và 30% so với năm 2001, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu tính cả số lượng người sử dụng Internet không phải thuê bao gồm những người sử dụng Internet tại cơ quan, dùng chung, dùng Internet card hay truy cập tại các điểm Internet công cộng hay các quán cà phê Internet (hiện nay trên cả nước có khoảng 4000 quán cà phê Internet) thì con số này phải đến 400- 600 nghìn người. Với khoảng nửa triệu người truy cập Internet, đây là con số đảm bảo cho việc hình thành ban đầu thị trường TMĐT trong nước nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng.

Hiện nay chính phủ đang đặt ra mục tiêu trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005 là đến năm 2005, số lượng người sử dụng Internet sẽ chiếm 4- 5% tổng dân số (1,3- 1,5/ 100 người) và số lượng thuê bao Internet vào năm 2005 sẽ tăng gấp 10 lần so với năm 2000, và mức độ và hiệu suất ứng dụng CNTT trong các cơ quan của Đảng và nhà nước, các tổ chức kinh tế- xã hội và các ngành kinh tế chủ chốt sẽ đạt mức của các quốc gia phát triển trong khu vực vào năm 2005. Vào năm 2005, mạng lưới thông tin giữa các bộ, ngành, các cơ quan trung ương và địa phương sẽ kết nối với mạng diện rộng của chính phủ (WAN) và với mạng Internet.

Khái quát về sự hình thành và phát triển của quảng cáo trên mạng, cách tiến hành quảng cáo trên Internet và một cái nhìn khái quát về tình hình ứng dụng Internet vào hoạt động quảng cáo ở Việt Nam - 15

2.3. Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam đã tạo điều kiện phát triển và nhu cầu cho quảng cáo trên mạng

Sự phát triển của TMĐT, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng đã tạo điều kiện và cơ hội cho sự phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam. Tuy có rất nhiều rào cản song sau gần 5 năm tham gia vào mạng Internet, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, hoà nhập được với xu thế phát triển chung của thế giới. TMĐT đã bắt đầu có được chỗ đứng của mình dù rất khiêm tốn. Sự nỗ lực của các nhà cung cấp dịch vụ Internet, sự nhạy bén của các tổ chức doanh nghiệp tiên phong đã góp phần đưa đến những thành công ban đầu của TMĐT. Sự hình thành và phát triển của các ứng dụng TMĐT hiện nay ở Việt Nam như thông tin, xuất bản, thanh toán, bán hàng qua mạng... và quảng cáo đã giúp thu hút số lượng ngày càng tăng lên của người sử dụng Internet trong nước, tạo thị trường cho TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng phát triển. Ngày 19/12/1998, Trung tâm dịch vụ giá trị gia tăng (VASC) khai trương siêu thị điện tử đầu tiên tại địa chỉ http://203.162.5.45/cybermall/ đã đánh dấu bước phát triển đầu tiên của TMĐT Việt Nam. Sau Cybermall, một số siêu thị điện tử khác của Việt Nam cũng ra đời như siêu thị máy tính tại http://www.bluesky.com.vn, hay NetAsie Shopping tại http://www.netasie- shop.com, ....Mặc dù doanh số vẫn còn nhỏ bé và số lượng các nhà cung cấp thực hiện việc bán hàng qua mạng chưa nhiều do việc mua bán trên mạng còn rất mới mẻ ở Việt Nam và những khó khăn trong khâu thanh toán, sự xuất hiện của các Web site bán hàng trên mạng đã bước đầu giúp cho người dân Việt Nam làm quen với việc mua bán trên mạng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, sự tăng lên của số người truy cập mạng và cước phí truy cập ngày càng giảm xuống, chúng ta tin tưởng rằng hoạt động mua

bán trên mạng trong vài ba năm nữa sẽ nhộn nhịp hơn, ít ra là trong bộ phận những người dân ở các thành phố lớn.

3. Khái quát Tình hình phát triển của quảng cáo trên mạng tại việt Nam

3.1. Vài nét về tình hình thị trường quảng cáo trên mạng

Thị trường quảng cáo trên mạng của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé và chưa phát triển hoàn thiện. Số lượng các đơn vị bán quảng cáo và mua quảng cáo vẫn chưa nhiều. Hiện nay trong số 70.000 doanh nghiệp mới chỉ có khoảng 1.500 doanh nghiệp có Web site trên mạng (chiếm 2%) và vài ngàn doanh nghiệp thực hiện quảng cáo trên mạng. So với các nước phát triển thì đây là một tỷ lệ quá thấp (ở Mỹ tỷ lệ này là 70%), nhưng với chúng ta đó là một con số rất có ý nghĩa. Tuy chưa trực tiếp bán hàng nhưng với việc xây dựng trang Web, các doanh nghiệp Việt Nam đã tạo cho mình một văn phòng giao dịch trên mạng, chuẩn bị sẵn sàng cho các giao dịch trực tuyến trong thời gian tới. Ngoài ra, hàng nghìn các công ty, cơ sở sản xuất kinh doanh cũng đưa thông tin quảng cáo trên các Web site của nhà cung cấp thông tin trên Internet như VDC, FPT, Netnam, Phương Nam. Khi vào bất kỳ trang Web nào của Việt Nam hiện nay, chúng ta đều thấy khá nhiều logo, banner quảng cáo của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế: từ điện tử, viễn thông, tin học, sản xuất chế biến, xuất nhập khẩu, du lịch đến các cửa hàng kinh doanh, các nhà may và thậm chí cả các phòng tranh của các hoạ sĩ.

Điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đã thừa nhận những lợi ích của quảng cáo trên mạng. Công ty xuất nhập khẩu sách báo (thuộc Bộ Văn hoá và thông tin) đã cho biết nhờ Web site mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những thay đổi về chất, khắc phục những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước. Cụ thể Web site xuhabasa. com.vn đã mang lại cho công ty này thêm khoảng 5% khách hàng mới. Ngoài ra, sự xuất hiện công ty trên Internet đã góp phần đưa uy tín của công ty lên một tầm cao mới, nhiều đề nghị hợp tác làm ăn và thị trường mới cũng đã xuất hiện nhờ sự có mặt của các công ty này. Nhà sách Minh Khai ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ sau một tháng khai trương việc bán sách qua mạng đã bán được trên 1000 cuốn sách các loại.

Số lượng các đơn vị bán quảng cáo trên mạng ở Việt Nam hiện nay chưa nhiều, một

phần do chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện quảng cáo trên mạng, một phần khác là do số lượng Web site ở Việt Nam hiện nay còn rất ít ỏi và do hoạt động này còn rất mới mẻ cũng như các Web site vẫn chưa ý thức được hết lợi ích của việc bán quảng cáo trên mạng. Hiện cả nước mới có khoảng 2.500 Web site của các doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức chính phủ và các cơ quan báo chí và các công ty cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động bán quảng cáo vẫn chưa mang tính phổ biến và thường xuyên ở tất cả các site, mang lại nguồn doanh thu ổn định. Một phần là do các đơn vị khi xây dựng Web site của mình trên mạng vẫn chưa tính đến các lợi ích của bán quảng cáo, một phần nữa là do số lượng độc giả chưa nhiều. Thông thường, để khách hàng trong và ngoài nước biết đến sản phẩm của mình, doanh nghiệp thường tìm đến các Web site có nhiều người truy cập để quảng cáo. Số lượng các Web site ở Việt Nam thu hút được nhiều độc giả chưa nhiều, do chất lượng thiết kế và nội dung thông tin còn nghèo nàn. Chỉ một số Web site có uy tín, được nhiều độc giả viếng thăm như Vnexpress hay VASC Orient, Netnam,... là thực hiện việc bán quảng cáo một cách thường xuyên. Theo một công bố mới đây của một công ty Internet có địa chỉ Alexa.com (Alexa.com là thành viên của của Amazone.com, một trong những hệ thống nổi tiếng của thế giới chuyên đo lường về chất lượng giao thông đến các Web site) về danh sách thứ hạng của 300.000 Web site phổ biến nhất trên thế giới, không phân biệt ngôn ngữ, lãnh thổ thì hầu hết các Web site của Việt Nam đều đứng ở vị trí gần giữa của bảng xếp hạng, trong đó site vnexpress.net của công ty FPT đứng đầu trong các Web site của Việt Nam (đứng ở vị trí thứ 16.715 trong bảng xếp hạng), đứng thứ hai là Web site home.netnam.vn(đứng ở vị trí 138.227). Đây cũng chính là các Web site được đăng ký quảng cáo nhiều nhất tại Việt Nam.

Hệ thống mua bán quảng cáo ở Việt Nam chưa phát triển và chưa có các cơ quan, tổ chức chuyên nghiệp hỗ trợ và điều hành hoạt động quảng cáo trên mạng. Việc mua bán quảng cáo trên mạng thường được thực hiện trực tiếp giữa người mua và người bán. Chưa có các tổ chức trung gian hỗ trợ việc mua bán quảng cáo như mạng quảng cáo, công ty đại diện hay tổ chức bán đấu giá quảng cáo. Nhà thiết kế thường tự

thiết kế Web site đồng thời tự thực hiện việc bán quảng cáo trên mạng. Các hệ thống dịch vụ khác hỗ trợ cho việc quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp như quản lý, thống kê, kiểm toán quảng cáo hay nhắm chọn và đối tượng hoá vẫn chưa hình thành và phát triển. Một phần là do hoạt động quảng cáo trên mạng chưa thực sự phát triển rộng rãi, thứ hai là do sự yếu kém của hoạt động thiết kế phần mềm trong nước.

Các hệ thống trao đổi quảng cáo cũng chưa hình thành. Các doanh nghiệp Việt Nam thường tự thiết kế Web site để quảng cáo cho mình mà chưa thực hiện việc trao đổi quảng cáo với các Web site khác. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa ý thức được lợi ích của hình thức này, chất lượng các trang Web chưa đồng đều và đặc biệt là chưa có tổ chức đứng ra điều hành việc trao đổi quảng cáo.

3.2. Các hình thức quảng cáo thường gặp

Nói chung hiện nay, các hình thức quảng cáo mà các doanh nghiệp Việt Nam thường sử dụng là Web site, banner và logo. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng đưa ra những hình thức quảng cáo rất đa dạng để thu hút các

doanh nghiệp tham gia. Ngoài Web, đặt logo, banner còn tổ chức các chuyên trang như Top 100, Best Ten (trên http://www,vnn.vn), trang kinh doanh Business.vnn.vn, tổ chức các hội chợ thương mại trên Internet. Các mục rao vặt trên Internet cũng rất phát triển, người xem có thể tìm mua các đơn đặt hàng đơn lẻ trên mục rao vặt của www.fpt.vn.

Một số doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng thư điện tử để tiếp thị, quảng cáo. Tuy nhiên, việc quảng cáo và tiếp thị bằng thư điện tử vẫn chưa phổ biến, một phần do chưa có

các tổ chức cung cấp cáHc ìdnhch6:vQudannghcsááochbatnneđriệnphtửía, mtnt cpùhngnvkàhqáuclnàgdcoáolcogdooanh nghiệp vẫn chưa nhận thphcíađưphcihmếtàlnợihíìcnhhctai shitìenwhwthw.cvnqeuxpnrgescsá.noent.ày và cũng chưa có

thói quen thực hiện nó. Một số Web site đã bắt đầu thực hiện hình thức quảng cáo e- zine, chẳng hạn như Web site http://www.thuongmaidientu.com, khuyến khích khách hàng đăng ký nhận bản tin điện tử để tiến hành lập cơ sở dữ liệu khách hàng và lập danh sách email.

Xem tất cả 156 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí