Đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ. Đây là tiêu chuẩn cơ bản đánh giá năng lực của nhà quản trị trong TTQT. Chuyên môn nghiệp vụ TTQT có độ khó, phức tạp cao bởi tính đa dạng, phong phú của yếu tố quốc tế tác động. Mặt khác, đào tạo phải theo hướng chuyên sâu, chú trọng sự tuân thủ các chuẩn mực về hành vi trong công việc.
Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ. Ngôn ngữ là cầu nối cơ bản; quan trọng nhất trong giao tiếp, cũng là nguyên nhân gây ra sự bất đồng, những rủi ro đáng tiếc trong kinh doanh. Nâng cao trình độ ngoại ngữ là điều kiện bắt buộc cho các nhà quản trị và nhân viên TTQT để xâm nhập thị trường quốc tế.
Đa dạng hóa các hình thức đào tạo: đào tạo ở nước ngoài, đào tạo tại chỗ, mời chuyên gia giỏi giảng dạy, xây dựng các dự án quốc tế về đào tạo nhân lực có trình độ cao để đảm bảo nhu cầu thiết yếu trong quá trình hội nhập; cùng với áp dụng chế độ ưu đãi nhằm thu hút các nhà quản lý và kinh doanh giỏi của Việt Nam ở nước ngoài về nước để tư vấn về chính sách tài chính, kinh doanh, đào tạo hoặc chuyển giao công nghệ. Áp dụng chế độ thu hút, giữ người tài bằng chính sách lương, khen thưởng,…
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về luật pháp, tập quán thương mại trong nước và quốc tế một cách thấu đáo và có tiếp cận thực tế. Môi trường pháp lý thường khá phức tạp mà lại không rõ ràng. Để tránh những vi phạm pháp luật ngoài mong muốn, cần có sự am hiểu nhất định về những công ước, điều ước quốc tế,…
Cuối cùng, cần có quy chế tuyển chọn cán bộ mới hợp lý để thực sự có được cán bộ có trình độ cũng như đạo đức, bố trí cán bộ đúng vị trí, đúng người đúng việc, mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ có năng lực vào vị trí thích hợp.
3.2.2.5 Giải pháp về công nghệ thông tin trong hoạt động TTQT
Đối với một ngân hàng hiện đại thì áp dụng công nghệ hiện đại phục vụ các dịch vụ mà ngân hàng đó cung cấp cho khách hàng là yếu tố không thể thiếu. Công nghệ giúp ngân hàng quản lý dữ liệu thống nhất và có thể truy xuất bất kỳ lúc nào, giảm được sức người trong việc theo dõi cơ học: như theo dõi các khoản thanh toán đến hạn, hạn mức của các doanh nghiệp…; giúp Phòng TTQT có thể theo dõi nghiệp
vụ các chi nhánh đang thực hiện, thực hiện các chức năng giám sát từ xa của Phòng thanh toán quốc tế hội sở….
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Pháp Nhằm Hạn Chế Rủi Ro Trong Ttqt Tại Eximbank
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Ttqt Của Eximbank Trong Thời Gian
- Các Giải Pháp Đồng Bộ Nhằm Quản Lý Rủi Ro Trong Ttqt Của Eximbank
- Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Việc đổi mới công nghệ, ứng dụng các giải pháp mới trong việc quản trị hệ thống, giao dịch, thanh toán trong các Ngân hàng đã là một yếu tố sống còn trong thị trường cạnh tranh bình đẳng. Công nghệ sẽ là nền tảng giúp ngân hàng trong lĩnh vực quản trị, trong việc mở rộng các sản phẩm dịch vụ, thông qua đó ngày càng đáp ứng được các nhu cầu khắt khe của hệ thống ngân hàng.
Mặc dù đề xuất và triệt để thực hiện những giải pháp quản lý rủi ro chỉ tại Eximbank thì cũng khó có thể tránh được mọi rủi ro, tổn thất trong hoạt động thanh toán quốc tế. Để giảm thiểu rủi ro, quản lý được rủi ro và góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động thanh toán quốc tế cũng cần có các giải pháp hỗ trợ khác từ Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Đối với chính phủ
3.3.1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách trong TTQT
Để không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp lý và chính sách phát triển thương mại, nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại thương nói chung và TTQT nói riêng, xin nêu ra một số kiến nghị cụ thể sau đây:
Chính phủ thông qua Bộ Tài Chính cần xem xét đến vấn đề về vốn và chi phí có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tài trợ xuất khẩu. Thực hiện chức năng hoạch định chính sách, định hướng phát triển cần xây dựng các mục tiêu trung dài hạn và quản lý hệ thống bảo hiểm tài trợ xuất khẩu.
Tăng cường hệ thống pháp lý thống nhất nhằm tạo ra môi trường pháp lý,
môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Xây dựng hệ thống pháp lý , chính sách phát triển, quản lý kinh tế trên cơ sở khoa học, thực tiễn, phù hợp với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và hạn chế những khiếm khuyết cản trở đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị chu đáo, tránh nóng vội nhằm tạo ra “sức sống” của các văn bản pháp quy, hạn chế những thay đổi quá nhanh của hệ thống pháp luật, chính sách phát triển, quản lý kinh doanh gây ra bất lợi cho các nhà doanh nghiệp. Không nên lạm dụng nguyên tắc “sai thì sửa” trong khi ban hành các văn bản pháp quy, chính sách quản lý kinh doanh mà dẫn đến sự tùy tiện dễ thay đổi, gây ra sự lo ngại, hoài nghi của các nhà đầu tư về những cam kết mang tính nguyên tắc của Nhà nước. Những thay đổi quá nhanh của các văn bản pháp quy và chính sách kinh tế là nguyên nhân rủi ro cho một số doanh nghiệp khi xây dựng phương án kinh doanh xuất nhập khẩu không lường hết những khó khăn, chi phí mới phát sinh.
Cải tiến công tác ban hành pháp luật, xây dựng chính sách kinh tế từ khâu soạn thảo, thảo luận cho đến ban hành chính thức. Hạn chế tối thiểu những sai sót, mập mờ, không khả thi, thiếu thống nhất của các văn bản pháp quy về kinh tế, nhất là các văn bản dưới luật như nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị…
Tăng cường pháp chế trong quản lý kinh doanh XNK. Kỷ luật, phép nước phải được tôn trọng bằng cách tuyên truyền giáo dục mọi người và có biện pháp xử lý nghiêm hoạt động chống buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo kinh tế trong nước cũng như quốc tế.
Ngoài ra chính phủ cũng cần ban hành các văn bản nhằm cụ thể hóa hơn nữa nhằm giải quyết tranh chấp khi có mâu thuẩn giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Các văn bản đó phải làm rõ tính chất pháp lý của UCP, URR,… đối với bên Việt Nam khi tham gia vào phương thức thanh toán quốc tế, giúp các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ.
3.3.1.2 Tăng cường quản lý thị trường, giám sát hợp đồng kinh doanh:
Vận động theo quy luật kinh tế thị trường, thị trường quốc tế là nguồn phát sinh những bất trắc, mối hiểm họa, nguy cơ rủi ro cho bất kỳ doanh nghiệp nào chấp nhận kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhằm giảm bớt nguy cơ rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ cần can thiệp một cách hợp lý trong một số mặt sau đây:
a. Quản lý chặt chẽ đầu mối buôn bán quốc tế:
Mặc dù, theo quan điểm chung là khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh XNK, tuy nhiên không nên hiểu theo nghĩa thả nổi không có sự quản lý các đầu mối kinh doanh. Để tránh rủi ro: tranh mua, tranh bán gây thiệt hại và giảm uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ cần phải:
Quy định tiêu chuẩn các doanh nghiệp được quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Tiêu chuẩn này phản ánh năng lực thực sự, uy tín của các doanh nghiệp khi muốn tham gia thị trường quốc tế.
Tăng cường giám sát quá trình kinh doanh bằng chế độ kiểm tra, kiểm soát, giám đốc bằng tiền, chế độ kiểm toán, báo cáo tài chính, phương án kinh doanh…
Đối với một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực, có những ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân cần có sự quản lý chặt chẽ đầu mối kinh doanh.
Định hướng thị trường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực làm căn cứ để định hướng phát triển sản xuất – kinh doanh:
Nghiên cứu định hướng thị trường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là giải pháp của Chính phủ tác động vào nguồn rủi ro nhằm giảm nhẹ tổn thất khi có rủi ro do biến động cung cầu, giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế gây ra.
Định hướng đúng đắn về thị trường xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất, có thị trường tiêu thụ thuận lợi, với giá cả hợp lý . Thiếu sự hướng dẫn của Chính phủ, người lao động, doanh nghiệp tiến hành sản xuất một cách tự phát, họ chỉ thấy lợi nhuận cao hiện thời mà đổ xô vào kinh doanh, một lúc nào đó giá cả hàng hoá xuống thấp họ gặp rủi ro ngoài sự mong đợi. Do vậy, Chính phủ là người có đủ khả năng để thực hiện vai trò “bà đỡ” cho các doanh nghiệp giảm bớt rủi ro do sự biến động khắc nghiệt của thị trường thế giới.
b. Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về thị trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên việc tự tìm kiếm thông tin thị trường, tự tranh trải mọi khoản chi phí phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, thiết lập kênh phân phối…là không thể thực hiện. Chính
phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tư vấn pháp lý , nguồn tài chính…để gia nhập thị trường quốc tế một cách vững vàng, hạn chế gặp phải rủi ro khi phải kinh doanh trong tình trạng bất lợi, thiếu thông tin, thiếu bình đẳng.
c. Giám sát thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Rủi ro, tổn thất trong kinh doanh hầu hết xảy ra trong giai đoạn thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngoài việc tự giám sát của mỗi doanh nghiệp, cơ quan quản lý của Chính phủ cần phải tăng cường chúc năng giám sát thực hiện hợp đồng đặc biệt là những hợp đồng có giá trị lớn để kịp thời ngăn chặn nguồn rủi ro phát sinh.
Giám sát thực hiện hợp đồng kinh doanh ngoại thương đựơc tiến hành trên cơ sở so sánh giữa hợp đồng với kế hoạch xuất nhập khẩu cấp quốc gia, qua đó Chính phủ thống kê lượng hàng hóa xuất nhập khẩu thực tế và có biện pháp điều chỉnh kịp thời cung cầu hàng hoá trên thị trường nội địa.
3.3.1.3 Tăng cường các biện pháp quản lý kỹ thuật an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu:
Dựa trên quan điểm “phòng hơn chống”, Chính phủ cần có những biện pháp chủ động nhằm ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro, tổn thất bằng cách giảm thiểu mối hiểm họa, nguy cơ, né tránh rủi ro. Vì sự an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu, Chính phủ cần thực hiện một số biện pháp mang tính kỹ thuật như sau:
Tăng cường những quy định thống nhất chung về an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu. Ví dụ những qui định về qui trình: an toàn trong tài trợ và sử dụng vốn tài trợ, an toàn trong quản lý và sử dụng ngoại tệ, mở tín dụng thư (L/C)...
Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, nâng cao trình dộ kỹ thuật công nghệ nhằm tạo thuận lợi và an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ: Xây dựng hệ thống cảng biển, đội tàu vận tải, xây dựng hệ thống cảng biển, đội tàu vận tải, xây dựng hệ thống bảo hiểm, ngân hàng, thị trường vốn, xử lý thông tin, thống kê… hiện đại.
Tăng cường tuyên truyền, tập huấn bồi dưỡng kiến thức về an toàn, phòng ngừa rủi ro, tổn thất trong thanh toán xuất nhập khẩu – lồng ghép kiến thức về an toàn trong chương trình bồi dưỡng, đào tạo về quản trị kinh doanh.
3.3.1.4 Nâng cao vai trò của các đại sứ quán ở nước ngoài, có chính sách phù hợp khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu
Đại sứ quán hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thu thập thông tin thị trường, tìm hiểu đối tác, tìm hiểu phong tục các quốc gia, giải quyết các vụ việc tranh chấp (nếu có). Đại sứ quán cần thông báo kịp thời cho doanh nghiệp tình hình chính sự tại các quốc gia trên thế giới.
Những vấn đề cần lưu ý của xuất khẩu Việt Nam từ lâu, đó là hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu, vấn đề cơ bản của mặt hàng xuất khẩu: Mặt hàng thô và sơ chế, nhất là nông sản, tỷ lệ chế biến sâu thấp, trên 60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp; Về hàng công nghiệp: tỷ lệ gia công cao, nhất là may mặc và giầy dép, hàng hóa chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới, tính cạnh tranh thấp vì chất lượng và mẫu mã, giá đầu vào cao, chi phí cho xuất khẩu lớn, nhất là thu gom hàng hóa và vận tải, tiêu cực phí ở các khâu vận tải và thủ tục hải quan...
3.3.2 Đối với Ngân hàng nhà nước
3.3.2.1 Xây dựng hệ thống cảnh báo những biến động bất thường về tình hình tài chính - kinh tế
Thứ nhất, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên ngành trực tiếp phục vụ công tác dự báo kinh tế. Hệ thống thông tin các dữ liệu kinh tế là hết sức quan trọng cho các hoạt động, dự báo kinh doanh và điều hành kinh tế các cấp. Tuy nhiên ở nước ta các thông tin kinh tế thường bị phân tán, chia cắt rời rạc và thiếu chuẩn hóa thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý, nhất là không được phổ biến rộng rãi, công khai gây khó khăn cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu khi tiếp cận. Vì vậy, Chính phủ cần có nghị quyết chuyên đề về việc xây dựng hệ thống thông tin và dữ liệu kinh tế các cấp dựa trên các thành tựu mới nhất của công
nghệ thông tin nhằm phục vụ các nhu cầu về thông tin kinh tế nói chung, phục vụ công
tác dự báo kinh tế nói riêng.
Thứ hai, cần đảm bảo tính chuyên nghiệp và sự phối hợp ăn khớp giữa các cơ quan chức năng và các loại công cụ dự báo, giữa công tác dự báo với công tác tổ chức thực hiện. Hơn nữa không thể không cân nhắc đến các tham số phi kinh tế khác trong quá trình tổng hợp và đưa ra các kết quả dự báo kinh tế. Vì vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ, liên ngành các cơ quan, các công cụ, phương pháp dự báo nhất là trong công đoạn thu thập dữ liệu đầu vào và công đoạn xử lý kết luận cuối cùng của quy trình dự báo, nhằm góp phần tham chiếu, phản biện và hoàn thiện, nâng cao tính xác thực của kết quả báo cáo dự báo.
Thứ ba, cần coi trọng đúng mức sự tương tác qua lại giữa công tác dự báo kinh tế với những đặc điểm luật pháp và kinh tế xã hội của đất nước. Kinh nghiệm thế giới và trong nước cho thấy, dự báo kinh tế cũng là nghệ thuật của sự ước lượng và cân nhắc trong tổng hòa các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội.. Nói một cách cụ thể, việc các chính sách, hệ thống luật pháp chung, cũng như nhiều yếu tố thượng tầng, và kiến trúc hạ tầng xã hội khác cũng tác động không nhỏ đến công tác dự báo, nhất là dự báo trung và dài hạn. Thế giới nói chung và thị trường hiện đại nói riêng đang và sẽ biến đổi ngày càng nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, thì những ai dự báo được tương lai một cách chính xác thì người đó sẽ chiến thắng.
3.3.2.2 Chính sách cho vay ngoại tệ, quản lý ngoại hối, tỷ giá cần điều
chỉnh kịp thời
Ngân hàng Nhà nước cần có một chính sách điều chỉnh tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình hình kinh tế để tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để làm cơ sở hình thành thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam, cụ thể:
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc tế được mua bán trên thị trường.
Đa dạng hóa các hình thức giao dịch mua bán ngoại tệ như mua bán giao
ngay, mua bán kỳ hạn, mua bán quyền chọn…
Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như Ngân hàng Trung ương, NHTM, những người môi giới…
Chỉ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối phát triển thì mới đảm bảo có được một tỷ giá linh hoạt, hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị trường phát triển, hạn chế rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp và các ngân hàng tham gia hoạt động thanh toán quốc tế
3.3.2.3 Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro của Ngân hàng Nhà nước (CIC):
Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro (CIC) có chức năng thu thập các thông tin về các doanh nghiệp, về thị trường trong và ngoài nước, về các đối tác, giúp các ngân hàng thương mại phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng.Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức xây dựng trung tâm đủ mạnh để có thể trở thành một nơi cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và đáng tin cậy cho các tổ chức tín dụng. Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của CIC:
CIC tiếp tục đổi mới về mô hình tổ chức nhằm đẩy mạnh việc đôn đốc các tổ chức tín dụng báo cáo thông tin, tăng cường việc thu thập, xử lý, quản lý thông tin đầu vào nhằm tạo cơ sở dữ liệu tốt để phục vụ công tác ngăn ngừa rủi ro.
Nghiên cứu đưa ra các biện pháp quản lý đồng bộ về phần mềm phục vụ báo cáo, khai thác sử dụng thông tin trong toàn hệ thống ngân hàng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về báo cáo và khai thác thông tin trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Tăng cường sự phối hợp giữa CIC với các Vụ, Cục Ngân hàng Nhà nước để kiểm tra việc thực hiện báo cáo thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng, phối hợp cung cấp và khai thác thông tin với CIC
Để nâng cao trách nhiệm và chất lượng cung cấp thông tin của các tổ chức tín dụng, bảo đảm lượng thông tin đầu vào an toàn, chính xác kịp thời, Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp xử lý hành chính kịp thời đối với các tổ chức tín dụng không chấp hành đúng các quy định của Ngân hàng Nhà nước về cung cấp thông tin báo cáo.