Các Ý Kiến Khác Nhau Về Sự Truyền Thừa Thiền Phái


thành. Trong đó, sự vật từ nhỏ cho đến lớn đều tác động qua lại lẫn nhau mà hình thành phát triển mà tồn tại. Bước vào thế giới Hoa Nghiêm là bước vào thế giới “Sự sự vô ngại pháp giới” (H 11) được diễn trình qua 4 giai đoạn “Lý pháp giới, Sự pháp giới, Lý - Sự vô ngại pháp giới, Sự sự vô ngại pháp giới” [xem 132] (H 12). Điều đó có nghĩa không ai có thể sống một mình mà không có mối liên hệ bên ngoài nào khác. Bản kinh đã lý giải tại sao Thiện Tài Đồng Tử trải qua 53 lần tham vấn của mình trong cuộc hành trình tìm cầu chân lý. Nội dung tham vấn đã nêu lên các vấn đề từ một đời sống thế tục đến thế giới tâm linh mà con người chứng đạt trong lý Duyên khởi.

Dưới tác động của Hoa Nghiêm, tư tưởng Cư trần lạc đạo lại càng thêm sáng tỏ trong nhận thức người Phật tử, tạo thành một lối sống mới trong sinh hoạt Phật giáo. Thực chất lối sống mới này được xuất phát từ khi Thường Chiếu đưa ra chủ trương tùy tục khi ông đặt vấn đề với Thần Nghi: “Ngươi thấy được ai là kẻ không tùy tục nào?”; Thần Nghi: “Bồ Đề Đạt Ma là một. Ông ta không chết mà chỉ lướt biển trở về Ấn Độ”. Thường Chiếu: “Đó chỉ chẳng qua là chuyện chó sủa bóng thôi.”. Thần Nghi hỏi: “Vậy, Hòa thượng có tùy tục không? Thường Chiếu nói: “Ta cũng tùy tục.”. Thần Nghi hỏi: “Tại sao như thế?” Thường Chiếu trả lời: “Để cho giống kẻ khác.” [145, 224]. Do đó, Thường Chiếu đặt mọi sinh hoạt Phật giáo của mình trong mối một liên hệ chung của cộng đồng. Theo Lược dẫn Thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục thì Thường Chiếu có ba đệ tử là thiền sư Hiện Quang, Thần Nghi, cư sĩ Thông Thiền (Xem phụ lục 1 - Biểu đồ).

Thông Thiền là một trong những nhân vật cư sĩ thiền gia xuất sắc lập nên Thiền phái Yên Tử, tông môn của Trúc Lâm. Giai đoạn này do ảnh hưởng của tư tưởng Hoa Nghiêm và thuyết tùy tục, các gương mặt cư sĩ thiền gia xuất hiện làm rực sáng tông môn Trúc Lâm như Ứng Thuận, sau đó là Tuệ Trung đề cập đến quá trình học đạo của Thiện Tài Đồng Tử: “Thế gian nghi vọng bất nghi chân, Chân vọng chi tâm diệc thị trần. Yếu đắc nhất cao siêu bỉ ngạn, Hảo tham Đồng Tử đối tiền nhân.” [333, 231] (H 13) (Người đời ưa vọng chẳng ưa chân, Chân vọng tâm kia cũng là trần. Cốt muốn nhảy thẳng lên bờ ấy, Hãy tham Đồng Tử đang có đây.) [315, 485].

Từ kinh Hoa Nghiêm, Tuệ Trung đưa ra các phạm trù đối lập trong tư tưởng giữa có và không, chân và vọng… hai mặt của vấn đề, chúng tồn tại và phát triển trong mối tương


quan. Đây là cơ sở lý luận giúp cho Thiền phái giải quyết nhiều vấn đề trong đời sống sinh hoạt Phật giáo và liên hệ đến các vấn đề quốc gia đại sự. Nó trở thành lý thuyết giá trị có hệ thống giúp cho các nhà lãnh đạo quốc gia Đại Việt bấy giờ có một cái nhìn liên hệ tương quan cùng nhau tồn tại và phát triển. Kết quả, Thiền phái ra đời và thể nhập vào đời. Từ đây, Thiền phái này có một sự liên hệ chặt chẽ mọi thành phần trong xã hội, tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân, với hào khí Đông A hào hùng trong lịch sử của dân tộc.

- Tín đồ - Nghi lễ truyền thừa

Chưa bao giờ trong lịch sử Phật giáo, số lượng tín đồ Phật tử trở thành thành viên Thiền phái Trúc Lâm đông đảo như vậy. Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều là những vị thầy có đệ tử với con số hàng nghìn người được quy y, thụ Bồ tát giới tại gia hay xuất gia. Pháp Loa là người chủ trương phát triển Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm có tổ chức hệ thống quy củ đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì do số lượng Tăng Ni đông quá, cứ mỗi lần tổ chức thọ giới thì phải thải ra hàng nghìn người; tuy vậy, “tính đến năm 1329, số tăng sĩ đã được xuất gia trong những giới đàn do Giáo hội Trúc Lâm tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị.”. Những vị đệ tử xuất sắc của Pháp Loa là Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc, Hải Ấn, Hoằng Tế, Huyền Giác, Quế Đường, Cảnh Ngung… Các nghi lễ truyền thọ Tỳ kheo, Bồ tát, Tam quy ngũ giới cho các vị Hoàng tộc, Phật tử tại gia được tổ chức thường xuyên. Các buổi khoá niệm cầu an, cầu siêu cũng được tổ chức, gọi là “Diệm khẩu thí pháp hội”, có nghĩa là đại hội Phật pháp để bố thí cho loài quỷ đói. Pháp này bày ra để thực hiện giáo nghiã từ bi, lợi lạc quần sinh. Năm 1320, Pháp Loa tổ chức trai đàn chẩn tế ở chùa Phổ Minh trong cung để cầu cho Thượng hoàng Anh Tông sống trường thọ. Việc biên soạn khoa nghi Du già, Phật giáo pháp sự đạo tràng công cách thức ấn hành vào năm 1299 là nhằm mục đích thu hút tín đồ tham gia học đạo. Các cuộc đại tham về Thiền thường xuyên được tổ chức theo một nghi thức trang trọng. Mở đầu là phần niệm hương, kế đó là thiền sư đăng toà, có lời sách tấn và sau đó trả lời các câu hỏi của các thiền sinh. Việc xây chùa, đúc tượng phục vụ cho việc hoằng pháp qua các Phật sự như nghi lễ thiền giáo, thuyết pháp được chú trọng. Có thể nói từ khi Thiền phái chính thức đi vào hoạt động trở về sau thì văn hóa Đại Việt trở nên đậm đà bản sắc dân tộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.


1.3.1.2. Các ý kiến khác nhau về sự truyền thừa Thiền phái

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 7

Sau khi Pháp Loa tịch vào năm 1330, theo Tam Tổ thực lục thì vị kế thừa đệ Tam Tổ là Tôn giả Huyền Quang. Sách này công lớn là do Tính Quảng và Ngô Thời Nhậm tập hợp tư liệu để viết về Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đây, lịch sử Thiền phái Trúc Lâm truyền bá rộng rãi, nhưng chỉ tập trung đề cập đến ba vị Tổ này. Tuy nhiên, thực tế Thiền phái này không chỉ giới hạn ở ba vị Tổ mà sau Huyền Quang tịch năm 1234, còn có các đệ tử khác của Pháp Loa như Cảnh Huy, Cảnh Ngung, Huệ Chúc, Kim Sơn là những người chỉ cách Pháp Loa bốn năm.

Cũng theo sách Tam Tổ thực lục ghi nhận thì Huyền Quang thụ giới với Pháp Loa. Nói như thế, Huyền Quang là đệ tử của Pháp Loa với chi tiết: “Lúc Tổ theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phụng Nhãn, thấy Quốc sư Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại chuyện xưa, bùi ngùi than rằng: “Làm quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hạ, há nên lưu luyến mãi!”. “Nhân đó, dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Thuở ấy, vua đang tôn sùng Phật giáo, nên người chấp nhận. Khi được phép vua, Tổ liền thọ giáo với thiền sư Pháp Loa, được pháp hiệu là Huyền Quang.” [232, 80]. Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì cho rằng Huyền Quang không phải là đệ tử Pháp Loa và đưa ra lời biện giải khá lý thú, có cơ sở là do: “Người chép truyện nghĩ rằng Huyền Quang, người kế vị Pháp Loa phải được xuất gia theo học Pháp Loa. Thực ra, năm ông xuất gia với thiền sư Bảo Phác thì Pháp Loa mới xuất gia được một năm, làm gì đã được “thuyết pháp” ở chùa Vĩnh Nghiêm, làm gì được danh hiệu Quốc sư. Mãi đến năm sau, 1036, Pháp Loa mới được lập làm giảng sư ở chùa Siêu Loại. Huyền Quang xuất gia sau Pháp Loa chỉ có một năm. Thiền sư Bảo Phác hồi đó ở núi Vũ Ninh, chưa được suy tôn Quốc sư. Có lẽ Huyền Quang đã thọ giới sa di tại chùa Vũ Ninh do Bảo Phác trú trì. Năm 1036, khi Pháp Loa được lập làm giảng sư chùa Siêu Loại, Bảo Phác có đem Huyền Quang về dự lễ này. Trúc Lâm gặp lại Huyền Quang trong hình thái tăng sĩ rất mừng, biết Huyền Quang là văn tài, liền đề nghị Bảo Phác để Huyền Quang tùy tùng Trúc Lâm trong cuộc sống hành đạo.” [145, 224]. Đồng quan điểm với Nguyễn Lang, ý kiến của Thích Phước Sơn ở phần chú thích sau phần dịch đoạn này là “Ở đây nói


Huyền Quang thụ giáo với Pháp Loa là sợ lầm. Theo bản tiểu sử của Pháp Loa thì Huyền Quang là đệ tử của Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh.” [232, 80].

Căn cứ vào Thánh đăng ngữ lục, Lê Mạnh Thát cho rằng Trúc Lâm đệ tam Tổ phải là Kim Sơn, đệ tử của Pháp Loa. Lê Mạnh Thát viện dẫn: “Kim Sơn là được vua Trần Minh Tông coi là vị thiền sư được “cốt tủy của Phổ Huệ”, như Thánh đăng ngữ lục tờ 38b4- 5 đã ghi, mà còn được vị vua này suy tôn làm Trúc Lâm tam đại Thiền Tổ, khi ông sắp mất vào năm 1358. Thánh đăng ngữ lục tờ 38b7-39a64 viết sự kiện này như sau: “Vua sắp băng hà, có kệ trình Kim Sơn nói: Đệ tử ốm bệnh muốn cả tuần. Đêm nằm, ngày uống thuốc, không ăn một hạt cơm, nhưng hạt hạt đều nhai hết. Nếu có người hỏi vị nó thế nào thì đáp chẳng có vị gì hết, lại xin trình kệ: “Chứa thuốc muốn trị bệnh, Không bệnh đâu dùng thuốc. Nay có cơm không hạt, Người không miệng nhai hết.”. Lại viết thư mời Kim Sơn đến tăng phòng Động Tiên xem bệnh.”

Vậy nói tới vị Tổ thứ ba của dòng Thiền Trúc Lâm, ta phải kể tới Kim Sơn, chứ không phải Huyền Quang. Trong các tư liệu hiện còn, trừ sách Tam Tổ thực lục ra, không có bất cứ tư liệu nào gọi Huyền Quang là tam đại Thiền Tổ cả, mà chỉ gọi là “tự pháp”, tức nối dõi dòng pháp của Pháp Loa. Cần chú ý là Niên phổ của Pháp Loa trong Tam Tổ thực lục tờ 19a6 đã gọi Pháp Loa là Trúc Lâm đệ nhị đại đại”. Việc vua Trần Minh Tông gọi thiền sư là tam đại Thiền Tổ, do thế, chính thức coi Kim Sơn là người kế thế dòng Thiền Trúc Lâm cho đến ít nhất là năm 1358, khi vua Trần Minh Tông mất. Dòng Thiền Trúc Lâm sau cái chết của Huyền Quang năm 1334 vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới sự ngoại hộ của triều đình nhà Trần.” [294, 326 - 327].

Từ các dữ liệu trích dẫn trên, chúng tôi cho rằng Huyền Quang không phải là đệ tử của Pháp Loa, nhưng chính Huyền Quang phải là người kế vị Pháp Loa làm Tổ thứ ba của Thiền phái. Bởi vì trong thực tiễn, vấn đề truyền thừa chủ yếu là truyền “Hiền”, chứ không truyền “Tự”. Còn ý kiến cho rằng Kim Sơn là đệ tam Tổ thì cần phải tham khảo thêm. Vả lại, theo sự khảo cứu của quan điểm xưa nay đều nhất trí Huyền Quang là Tổ thứ ba của Thiền phái. Chúng tôi đồng tình quan điểm này.

Nhà Trần vẫn duy trì chính sách phát triển đất nước song hành Phật giáo sau khi Huyền Quang viên tịch. Các đệ tử đắc pháp với Pháp Loa, Huyền Quang tiếp tục lèo lái con thuyền Thiền phái đi sâu đời sống thực tiễn dân chúng. Thậm chí, Thiền phái còn


được phát triển không chỉ có vị trí trên vũ đài chính trị mà còn có sức sống mạnh mẽ trong lòng dân chúng của một xã hội rộng lớn như Đại Việt vào cuối đời Trần. Nguyễn Khắc Thuần trong Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam đã phát biểu khách quan khi ông cho rằng Phật giáo cuối đời Trần vào thế kỷ XIV: “Đó đây có ý cho rằng quá trình suy vi của Phật giáo bắt đầu. Thực ra thì không phải như vậy. Phật giáo phát triển, nhưng chỉ phát triển trong lòng xã hội mà thôi… Bấy giờ người xuất gia tu hành ngày một đông. Cũng có lúc nhà nước đứng ra tổ chức đại lễ xuất gia cho hàng loạt người trong khắp cả nước. Trong đông đảo số xuất gia tu hành này, không ít người trở thành các bậc cao tăng, có uy tín rất lớn. Chính uy tín và đức độ của các bậc cao tăng này đã góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển chung của Phật giáo ở nước ta.” [272, 114 - 116]. Chúng tôi đồng ý quan điểm này.

Ghi nhận đầu tiên về lịch sử truyền thừa Thiền phái là cho ra đời Tam Tổ thực lục vào cuối thế kỷ XVIII. Nội dung sách trình bày lịch sử truyền thừa Thiền phái qua ba vị Tổ là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, công đầu là Tính Quảng và học trò của mình là Hải Lượng Ngô Thì Nhậm. Đó là sự tổng hợp các tư liệu: phần tiểu sử Trần Nhân Tông trích từ Thánh đăng ngữ lục và một phần cuối sách được trích từ Quốc sử chép việc sư Trí Thông đốt cánh tay khi vua Nhân Tông xuất gia đến lúc viên tịch, được vào hầu tháp ở núi Yên Tử; còn tiểu sử Pháp Loa thực chất là bản sao Niên phổ của ngài được khắc trên bia tháp Viên Thông năm Nhâm Dần (1326); phần viết về Huyền Quang chính là bản sao lại từ bản Tổ gia thực lục cuối sách có đoạn chú thích mà theo Thích Phước Sơn khi dịch và chú thích Tam Tổ thực lục thì tự đặt cho nhan đề “Những diễn biến về quyển Tổ gia thực lục”, Thích Phước Sơn cho rằng có lẽ do Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm viết (?) [232, 90]; cùng một số đoạn văn của ba vị Tổ mà ngày nay các chùa còn lưu trữ với cái tên sách là Thiền đạo yếu lược.

Như vậy, sách Tam Tổ thực lục ra đời và được lưu hành rộng rãi càng tạo thêm uy tín Thiền phái, nhất là việc phổ biến lịch sử truyền thừa về ba vị Tổ đầu tiên. Nó càng được dân chúng tin yêu và tôn vinh Thiền phái khi tác phẩmTrúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được xuất bản lần đầu vào năm Cảnh Thìn thứ 3 (1795). Cấu trúc sách này gồm có các phần chính sau: Lời tựa sách Đại chân viên giác thanh của Phan Huy Ích; Chân dung của


ba vị Tổ Trúc Lâm và Hải Lượng – đại thiền sư Ngô Thì Nhậm; Tam Tổ hành trạng: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang; Hai mươi bốn thanh; Thanh tiểu khấu. Điểm đáng lưu ý là trong phần mở đầu sách, sau khi trình bày về tiểu sử ba vị Tổ Thiền phái, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm viết về bản thân ông và tự xưng là “Trúc Lâm đệ tứ tôn” [189, 297]. Với ảnh hưởng của Ngô Thời Nhậm cùng với các thiền sư Hải Âu Vũ Trinh, Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở, Hải Huyền Ngô Thì Hoành, Hải Điền Nguyễn Hữu Đàm xuất thân từ danh gia vọng tộc của thế kỷ XVIII thì hình ảnh Trúc Lâm Tam Tổ càng ăn sâu trong tâm trí người dân Đại Việt.

Thực tế, hệ thống chùa chiền ở miền Bắc hiện nay được xây dựng từ đời Trần trở về sau đều có thờ Tam Tổ: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang và lưu trữ sách Tam Tổ thực lục. Các chùa ở miền Nam có các vị khai sơn xuất thân từ Thiền phái cũng thờ Tam Tổ như chùa Vĩnh Nghiêm, Nam Thiên Nhất Trụ ở Thành phố Hồ Chí Minh… Sau năm 1975, Hoà thượng Thích Thanh Từ, với chủ trương phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, đã đứng ra tổ chức và xây dựng một loạt một ngôi chùa ở Đồng Nai và Trúc Lâm ở Đà Lạt, ở Huế và Hà Nội đều có tôn trí Trúc Lâm Tam Tổ. Điều đó càng làm cho chúng tôi có cơ sở thực tiễn để khẳng định, Huyền Quang là đệ Tam Tổ của Thiền phái.

Có điều hầu hết các sử liệu liên hệ Phật giáo đều ghi nhận Huyền Quang được xem là đệ tam Tổ, nhưng chỉ lãnh đạo ba năm và qua đời. Một số thiền sư khác và Kim Sơn tiếp tục hành đạo, đã nỗ lực cho ra đời Thiền uyển tập anh, bộ lịch sử Phật giáo Thiền tông đầu tiên sau Chiếu đối bản của Thông Biện (? – 1134), Chiếu đối lục của Biện Tài và Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu, Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh như ý kiến Lê Mạnh Thát đề xuất! [294, 335]. Tất nhiên, chúng ta cũng chẳng thấy sử liệu nào ghi nhận đệ tứ Tổ Trúc Lâm là ai, chỉ trừ Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh mà Hải Lượng Ngô Thì Nhậm tự ghi như đã nói.

Theo Đại Nam Thiền uyển kế đăng lược lục được in vào năm 1858 thì sau Huyền Quang là An Tâm, sau đó là Quốc sư Phù Vân, Quốc sư Vô Trước, Quốc sư Quốc Nhất… [145, 219]. Các vị này được triều đình ban tặng danh hiệu Quốc sư, chứ không có ban xưng đệ tứ Tổ, hay ngũ Tổ… Ý kiến của Lê Mạnh Thát trong Toàn tập Trần Nhân Tông cho rằng Kim Sơn có thể là đệ tam Tổ Trúc Lâm, đó là mỹ hiệu mà Trần Minh Tông gọi


ngài trước khi băng hà. Nhưng sử liệu cũng nhận chính vua Trần Minh Tông ban cho Huyền Quang là Trúc Lâm Tam Đại Tự Pháp Huyền Quang tôn giả và cúng dường 10 lạng bạc để xây tháp thờ ngài sau chùa Tư Phúc ở Côn Sơn.

Đến đời vua Trần Dụ Tông, Thiền phái Trúc Lâm vẫn hoạt động theo tinh thần nhập thế độ đời. Bằng chứng làThiền sư Tuệ Tĩnh tức Nguyễn Bá Tĩnh (1320 - 1399) đắc pháp với thiền sư Lã Sơn tại chùa Vân Yên núi Yên Tử, công trình của ông để lại cho hậu thế là Nam dược thần hiệu; Hồng nghĩa giác tư y thư; Nam dược quốc ngữ phú; Trực giải chỉ nam dược tính phú và diễn nôm Thiền tông Khoá hư lục. Khi Chế Bồng Nga, quân Chiêm Thành đã nhiều lần sang đánh nước ta, chúng liền bị đội quân xuất gia của thiền sư Đại Tham đánh trả vào năm 1381. Thiền sư Phạm Sư Ôn cùng nhân dân nổi dậy chống lại triều đình khi triều đại Trần Dụ Tông không còn lo cho dân cho nước…

Với các sử liệu trên, phải chăng đây chính là mẫu người Phật giáo Trúc Lâm mà Trần Nhân Tông đưa ra “Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu?” [333, 507] (N 14). Sau đó, các thiền sư như Viên Thái, tác giả dịch Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ra tiếng Việt Quốc âm, rồi sư Pháp Tính đã diễn tác phẩm Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục thành thơ, cũng là tác giả bộ từ điển Hán Việt xưa nhất hiện còn với cái tên là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Theo Lê Mạnh Thát thì sư Pháp Tính trong thời gian tu học đã có điều kiện theo học với Trúc Lâm, tự đề xuất lối chữ Quốc âm dễ học và xác lập văn tự tiếng Quốc âm như văn tự của Thánh hiền: “Nói nôm na tiếng thị phi, Đến lập văn tự lại y Thánh hiền. Soạn làm chữ cái chữ con, San bản lưu truyền ai đặc thì thông… Vốn xưa làm nôm xe chữ kép, Người thiếu học khôn biết khôn xem. Bây chừ nôm dạy chữ đơn, Cho người mới học nghĩ xem nghĩ nhuần.” [294, 347] (N 15). Từ đây, tạo nên phong trào dùng văn tự Quốc âm để sáng tác và trước thuật từ văn chương đến các ngành học khác. Minh Châu Hương Hải (1668 - 1715) giải thích kinh điển bằng tiếng Việt Quốc âm, hiện chỉ bốn tác phẩm mà ta được biết.

Như vậy, Thiền phái Trúc Lâm đã liên tục kế thừa sau khi đệ tam Tổ Huyền Quang viên tịch chứ không phải ba đời rồi chấm dứt. Sự kiện Tam Tổ thực lục được khắc in vào năm 1765, tiếp đến Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, trong phần đầu có đề cập đến Tam Tổ hành trạng được lưu hành, cuối cùng là Đại Nam Thiền uyển kế đăng lược lục được ấn


hành vào năm 1858, tất cả là những chứng cứ sử liệu để chứng minh lịch sử truyền thừa Thiền phái là liên tục mà An Thiền ghi có 23 vị cả thảy [145, 219]. (Xem phần phụ lục 1 - Biểu đồ).

Theo Thiền tông chỉ nam tự thì Trần Thái Tông lên núi Yên Tử vào năm 1236 và gặp Quốc sư Trúc Lâm Đại sa môn. (Theo biểu đồ - phần phụ lục 1 - thì Hiện Quang là thầy của Đạo Viên. Thiền uyển tập anh cũng có ghi Hiện Quang là thầy của Đạo Viên. Trong khi đó Thiền tông bản hạnh, Đại Nam Thiền uyển kế đăng lược lục đều ghi Thái Tông lên Yên Tử gặp Quốc sư Viên Chứng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi vua gặp Quốc sư Phù Vân). Như vậy, Quốc sư Phù Vân, Viên Chứng, Đạo Viên là một người. Người kế thừa Đạo Viên là Đại Đăng. Kế thừa Đại Đăng thì phải là Tiêu Diêu. Nhưng theo Thượng sĩ ngữ lục ghi Tiêu Diêu là học trò đắc pháp với cư sĩ Ứng Thuận, Tiêu Diêu còn là thầy của Tuệ Trung. Do đó, Tiêu Diêu không phải là đệ tử của Đại Đăng như biểu đồ ghi. Kế thừa Tiêu Diêu là Huệ Tuệ, nhưng theo Lược dẫn Thiền phái đồ thì không có ghi tên nào là Huệ Tuệ cả. Cũng theo cách suy diễn trường hợp Đạo Viên, Viên Chứng, Phù Vân, chúng ta cũng có thể đồng nhất Huệ Tuệ với Tuệ Trung. Lại theo biểu đồ thì Trần Nhân Tông là người kế thừa Huệ Tuệ, có nghĩa là kế thừa Tuệ Trung. Điều này là hợp lý vì trong sử liệu Thượng sĩ hành trạng ghi Trần Thánh Tông đã tôn Tuệ Trung làm sư huynh và giao con mình là Trần Nhân Tông làm đệ tử. Trần Nhân Tông đã thừa nhận đắc pháp với Tuệ Trung vào năm 1278 như trong Thượng sĩ hành trạng ghi rõ. Sau Nhân Tông là Pháp Loa và Huyền Quang thì không có gì để bàn.

Như vậy, sự kế thừa theo biểu đồ mà An Thiền đưa ra là hợp lý. Mười lăm đời còn lại là kể từ khi Huyền Quang viên tịch cho đến Vô Phiền (1200 – 1700). Truyền thống kế thừa Yên Tử vẫn được các đệ tử Trúc Lâm kế tục. Sau Vô Phiền là những thiền sư nào kế thừa, bấy giờ sử liệu không đề cập. Có điều trong sự truyền thừa này, ba gương mặt có tầm ảnh hưởng lớn, tác động mạnh vào việc hình thành và phát triển Thiền phái cho đến nay phải nói là Trúc Lâm Tam Tổ, đúng như Thiền tông bản hạnh ca ngợi: “Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang, Tam vị Phật Tổ Nam bang Trần triều.” [317, 242] (N 16).

Tóm lại, sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm có tác động mạnh mẽ với lịch sử dân tộc và Phật giáo. Thiền phái này không chỉ do người Việt sáng lập mà còn là kết quả của quá

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/02/2023