2.1.2. Phương pháp thổ
Là phương pháp làm cho nôn ra, dùng trong các trường hợp ăn không tiêu, bụng căng đầy, bội thực, ăn phải các chất độc, có nguy có gây nguy hiểm đến tính mạng. Thường dùng các thuốc dễ gây nôn như lục phàn (sắt sulfat)… khi cần thiết phải kết hợp với rửa hút đường tiêu hóa của Y học hiện đại.
2.1.3. Phương pháp tả hạ
Là phương pháp cho đi tả, dùng cho các trường hợp đại tràng thực nhiệt táo kết dẫn đén đau bụng. Thừng dùng các thuốc như: Đại hoàng, cam thảo, thảo huyết minh…
2.1.4. Phương pháp hòa (hòa giải, hòa hoãn)
Phương pháp này dựa trên cơ sở điều hòa âm dương, điều hòa ngũ tạng lục phủ trong cơ thể. Ví dụ: Âm hư sinh nội nhiệt dùng thuốc bổ âm, dương hư gây ngoại hàn dùng thuốc bổ dương.
2.1.5. Phương pháp ôn
Là phương pháp làm ấm cơ thể, trừ khử hàn tà. Thường sử dụng các thuốc: Tân ôn giải biểu, ôn trung tán hàn, hồi dương cứu nghịch.
2.1.6. Phương pháp thanh
Là phương pháp thanh thử nhiệt độc ra khỏi cơ thể. Ví dụ: Trúng thử (say nắng nóng)dùng thuốc thanh nhiệt giải thử (rau má, rễ sắn dây tươi, lá đạu ván…), sốt cao mê sảng do tà nhiệt nhập lý dùng thuốc thanh nhiệt giải độc (thạch cao, huyền sâm, chi tử…) dị ứng mụn nhoth (liên kiều, bồ công anh, kim ngân…), huyết nhiệt hoặc sốt kéo dài dùng thuốc thanh nhiệt lương huyết (sinh địa, địa cốt bì, mẫu đơn bì…), bệnh thấp nhiệt dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp (hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm…).
Có thể bạn quan tâm!
- Dược học cố truyền - 1
- Dược học cố truyền - 2
- Thuốc Y Học Cổ Truyền Mang Tính Chất Tương Khắc
- Hư: Hư Là Biểu Hiện Chứng Hư, Chứng Của Bệnh Lâu Ngày, Bệnh Mạn Tính.
- Dược học cố truyền - 6
- Dược học cố truyền - 7
Xem toàn bộ 62 trang tài liệu này.
2.1.7. Phương pháp tiêu
Chủ yếu là tiêu đạo, khi cơ thể tiêu hóa không tốt. Thường sử dụng các thuốc kích thích tiêu hóa như: Mạch nha, sơn tra, thần khúc… kết hợp với thuốc kiện tỳ như: Bạch truật, bạch linh, hoàng kỳ…
2.1.8. Phương pháp bổ
Phương pháp này dùng trong các trường hợp cơ thể suy nhước, ốm lâu ngày (bệnh thuộc chứng hư). Ví dụ: Âm hư dùng thuốc bổ âm, dương hư dùng thuốc bổ dương…
2.2. Phương pháp trị bên ngoài
2.2.1. Phương pháp xông
Xông là một phương pháp đọc đáo của y học cổ truyền Việt Nam. Phương pháp này đơn giản nhưng cho hiệu quả cao với một số bệnh ngoại cảm hoặc xông để giảm đau.
2.2.2. Phương pháp đánh gió (đánh cảm, bắt gió) Áp dụng khi bị cảm
2.2.3. Phương pháp cứu
Có thể tiến hành cứu trực tiếp bằng điếu ngải hoặc gián tiếp bằng mồi ngải qua dược liệu trung gian là những lát gừng tươi hay tỏi tươi (dày 1,5 – 2mm) có xuyên những lổ nhỏ.
2.2.4. Phương pháp tắm rửa
Dùng lá tươi vò nát thêm nước lã sạch hoặc nước sôi để nguội tắm cho trẻ.
2.2.5. Phương pháp bó đắp
Thường dùng phương pháp này khi bị chấn thương, đau cơ, đau xương.
3. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH
3.1. Chữa bệnh phải tìm nguồn gốc bệnh và phải có ngọn
Gốc bệnh là những nguyên nhân gây bệnh, bao gồm những nguyên nhân bên ngoài (tự nhiên, xã hội) và những thay đổi bên trong con người gọi là nội nhân.
3.2. Chính trị, phản trị.
- Chính trị: Là phương pháp dùng thuốc âm (âm dược) để trị chứng bệnh dương (dương chứng), dùng dương dược để trị chứng bệnh âm (âm chứng).
Ví dụ: Ho do phế hàn thì trị bằng thuốc ôn phế chỉ ho
Ho do phế nhiệt thì trị bằng thuốc thanh phế chỉ ho.
- Phản trị: Là phương pháp dùng âm dược để trị âm chứng , dùng dương dược để trị dương chứng. Phản trị được ứng dụng trong các chứng “ chân giả”. Thực chất của phản trị tương tự như chính trị và triệu chứng của bệnh là giả.
3.3. Bệnh hư thì trị bằng thuốc bổ, bệnh thực trị bằng thuốc tả “hư thì bổ thực thì tả”
- Bệnh hư là bệnh kéo dài, diễn biến từ từ, không dữ dội, biểu hiện sự suy yếu của cơ thể hoặc từng tạng phủ, từng cơ quan. Phương pháp điều trị là bổ.
- Bệnh thực là bệnh cấp tính hoặc đợt cấp tính của bệnh mạn. Bệnh diễn biến nhanh, phức tạp, dữ dội. Phương pháp điều trị là phối hợp điều trị triệu chứng với điều trị nguyên nhân.
* Phép bổ tả là theo học thuyết ngũ hành. Nếu vận dụng qui luật tương sinh – tương khắc của ngũ hành thì “Con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con”.
3.4. Bệnh hoãn thì trị bản, bệnh cấp thì trị tiêu
- Bệnh hoãn là bệnh diễn biến từ từ, không dữ dội, thường là bệnh mới phát hoặc bệnh hư (mạn tính) thì chữa nguyên nhân là chính (bản) phối hợp với thuốc trị triệu chứng (tiêu).
Ví dụ: Tỳ hư gây tiết tả thì trị bằng thuốc kiện tỳ là chính, kết hợp với thuốc ôn lý trừ hàn, hành khí, chỉ tả.
- Bệnh cấp có triệu chứng dữ dội, diễn biến nhanh thì trị triệu chứng (tiêu) là chính phối hợp với thuốc trị nguyên nhân.
Ví dụ: Bệnh sốt cao do hỏa độc thì trị chứng sốt cao phối hợp với thanh nhiệt giải độc.
*Tóm lại: Cấp trị tiêu, hoãn trị bản. Trường hợp kết hợp trị tiêu và trị bản gọi là: Tiêu bản đồng trị.
3.5. Bệnh thế đi xuống thì trị bằng thuốc thăng,bệnh thế đi lên thì trị bằng thuốc giáng
Ví dụ:
- Các chứng sa giáng (sa dạ dày, tử cung, trực tràng…)thì dùng các thuốc thăng như phương bổ trung ích khí.
- Bệnh đau đầu do can hỏa vượng thì dùng thuốc bình can giáng hỏa, tiềm dương.
Chương 5:
MỤC TIÊU
Sau khi học xong sinh viên phải:
THUỐC CỔ TRUYỀN
1.Trình bày được định nghĩa thuốc cổ truyền và thành phần cấu tạo nên phương thuốc, phân tích được phương thuốc.
2.Trình bày được tứ khí, ngũ vị và mối quan hệ giữa tính và vị
3.Trình bày được khuynh hướng tác dụng của thuốc (thăng, giáng, phù, trầm). 4.Trình bày được sự qui kinh và các trường hợp tương tác thuốc y học cổ truyền.
NỘI DUNG
A. ĐẠI CƯƠNG VỀ THUỐC CỔ TRUYỀN
1. ĐỊNH NGHĨA
Thuốc cổ truyền là một vị thuốc sống hoặc chín hay một chế phẩm thuốc được phối ngũ lập phương và được bào chế theo phương pháp y học cổ truyền từ một hay nhiều vị thuốc có nguồn gốc từ thực vật, động vật, khoáng vật có tác dụng chữa bệnh hay có lợi cho sức khỏe con người.
Ngoài định nghĩa trên cần thiết một số khái niệm có liên quan sau:
- Cổ phương: Là thuốc được sử dụng đúng như sách vở cổ (cũ) đã ghi về số vị, lượng từng vị, cách chế, cách dùng, liều dùng, chỉ định.
- Cổ phương gia giảm: Là thuốc có cấu trúc khác với cổ phương về số vị, lượng từng vị, cách chế, cách dùng, liều dùng theo biện chứng của thầy thuốc, trong đó cổ phương vẫn là cơ bản.
- Thuốc gia truyền: Là những bài thuốc trị một chứng bệnh nhất định có hiệu quả và nổi tiếng một vùng, một địa phương, được sản xuất lưu truyền lâu đời trong gia đình.
- Tân phương (thuốc cổ truyền mới): Là thuốc có cấu trúc khác hoàn toàn với cổ phương về số vị, lượng từng vị, cách chế, cách dùng, liều dùng, chỉ định.
2. THÀNH PHẦN CẤU TẠO NÊN PHƯƠNG THUỐC
Phương thuốc y học cổ truyền được hình thành trong chế độ phong kiến. Do đó cách gọi các thành phần trong phương thuốc cũng tuân theo qui ước về vị trí ngôi thứ của chế dộ phong kiến đó là: Quân, Thần, Tá, Sứ.
2.1. Quân (vua)
Là vị thuốc có tác dụng chính trong phương, có công năng chính, giải quyết triệu chứng chính của bệnh, có thể dùng một vị Quân (cơ phương) hay dùng hai vị (ngẫu phương).
2.2. Thần
Là vị thuốc có tác dụng hỗ trợ vị Quân để giải quyết triệu chứng chính, đồng thời gải quyết một khía cạnh nào đó cảu bệnh, có thể một hay nhiều vị thần hoặc có thể có nhiều nhóm. Thần để giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau.
2.3. Tá
Một hay nhiều vị thuốc cs tác dụng giải quyết một triệu chứng nào đó của bệnh. Có thể có nhiều nhóm tá, mỗi nhóm giải quyết một triệu chứng của bệnh.
2.4. Sứ
Là vị thuốc có tác dụng dẫn thuốc vào kinh, hoặc giải quyết một triệu chứng phụ của bệnh, cũng có khi mang tính hòa hoãn sự mãnh liệt của phương thuốc.
* Ví dụ:
Phương ma hoàng thang
Ma hoàng 10g Quế chi 10g
Hạnh nhân 8g Cam thảo 4g
Trong đó:
- Ma hoàng là Quân, có tác dụng chính trong phương, có công năng phát hãn giải biểu hàn, bình suyễn.
- Quế chi là Thần, giúp cho ma hoàng phát hãn giải biểu.
- Hạnh nhân là tá, giải quyết một triệu chứng phụ là ho đờm
- Cam thảo là sứ, vừa dẫn thuốc vào kinh, vừa giải quyết triệu chứng phụ là ho.
Công năng: Giải biểu hàn, chỉ ho bình suyễn
Chủ trị: Dùng khi cảm mạo phong hàn có ho, đờm suyễn tức.
3. TỨ KHÍ
Thuốc cổ truyền có tứ khí (bốn khí) đó là: Hàn, lương, ôn, nhiệt. Tứ khí chỉ mức độ nóng lạnh khác nhau của vị thuốc. Ngoài ra ở giữ mức độ hàn lương, on nhiệt có tính bình. Như vậy tính của vị thuốc tồn tại một cách khách quan và có tính chất tương đối. Tính của mỗi vị thuốc được quyết định thông qua tác dụng của chúng với những bệnh có tính đối lập.
-Những vị thuốc có tính hàn (lạnh) hoặc lương (mát), trên thực tế có thể được dùng để điều trị những bệnh thuộc chứng nhiệt.
Ví dụ:
Thạch cao có tính hàn vì có tác dụng với chứng sốt cao Hoàng liên có tính hàn vì có tác dụng thanh tâm hỏa
Miết giáp có tính hàn vì có tác dụng trừ nhiệt do thể âm hư Mạch môn có tính lương (mát) có tác dụng trừ ho do nhiệt
Kiêm tiền thảo có tính lương có tác dụng chữ bàng quang thấp nhiệt gây tiểu vàng, đỏ, buốt, dắt…
* Tóm lại: Các thuốc có tính hàn lương có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, lương huyết, giải độc, lợi tiểu.
- Những vị thuốc có tính ôn (ấm), nhiệt (nóng), trên thực tế chúng được dùng để điều trị các bệnh thuộc chứng hàn.
Ví dụ:
Quế nhục có tính nhiệt chữa hàn nhập lý Phụ tử có tính nhiệt chữa thận hư hàn
Ma hoàng, tía tô, kinh giới có tính ôn chữa cảm mạo phong hàn.
* Tóm lại: Các thuốc có tính ôn nhiệt có tác dụng giải cảm hàn, phát hãn, thông kinh mạch, hoạt huyết, giảm đau, hồi dương cứu nghịch…
- Những vị thuốc có tính bình thực tế chúng có tác dụng lợi thấp, lợi tiểu, hạ khí, long đờm, bổ tỳ vị như: Hoài sơn, cam thảo, bạch cương tằm, tỳ giải, râu ngô.
4. NGŨ VỊ
Mỗi dược lệu có thể có một hay nhiều vị. Thuốc có vị đắng như hoàng cầm, hoàng bá, xuyên tâm liên… có thể có 2 vị vừa đắng lại vừa ngọt như địa cốt bì, thảo quyết minh hay vừa đắng lại vừa cay như cát cánh, vừa cay lại vừa mặn như tạo giác, vừa cay vừa chua như ngư tinh
thảo… cũng có khi có ba vị đắng, chua, mặn như tê giác. Cá biệt có tới năm vị chua, cay, đắng, mặn, ngọt như ngũ vị tử… Theo quan niệm y học cổ truyền các vị của thuốc có tính chất, tác dụng là khác nhau.
4.1. Vị cay (vị tân)
Có tính phát tán, giải biểu, phát hãn, hành huyết, giảm đau, khai khiếu. Thường sử dụng các thuốc có vị cay trong các bệnh cảm mạo, đầy bụng, trướng bụng. Nói chung các thuốc có vị cay được dùng để khử hàn, ôn trung, giảm đau.
4.2. Vị ngọt (vị cam)
Có tác dụng hòa hoãn, nhuận tràng, bồi bổ cơ thể.
4.3. Vị đắng (vị khổ)
Có tác dụng thanh nhiệt, chống viêm, sát khuẩn. Thuốc có vị đắng dùng lâu thường gây táo. Ngoài ra thuốc có vị đắng còn có tác dụng độc.
4.4. Vị chua (vị toan)
Có tác dụng thu liễm (làm săn da), liễm hãn (giảm ra mồ hôi), cố sáp (làm chác chắn lại), chỉ ho, sát khuẩn, chống thối.
4.5. Vị mặn (vị hàm)
Có tác dụng nhuận hạ, tiêu đờm, tán kết.
* ngoài năm vị nói trên thực tế còn có vị nhạt, chát.
-Vị nhạt: Có tác dụng tăng tính thẩm thấp lợi thủy, lợi tiểu, thanh lọc, thanh nhiệt.
-Vị chát: Có tác dụng thu liễm, cố sáp như vị chua nhưng sát khuẩn, chống thối thì mạnh hơn. Ngoài ra vị chát còn có tác dụng kiện tỳ, sáp tinh.
5. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH VÀ VỊ
Trên thực tế tính và vị có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Ví dụ như: Vị thuốc có tính hàn thường có vị đắng mặn… Thuốc có tính nhiệt thường có vị cay, thuốc có tính bình thường có vị nhạt, chát… Khi nhận xét về vị của thuốc cần lưu ý với các vị thuốc có nhiều vị khác nhau, trường hợp này ta ưu tiên cho những vị có công năng rõ hơn lên trên.
Ngoài ra ta cần chú ý một số quan hệ về tính và vị sau.
5.1. Các vị thuốc có tính và vị giống nhau
Các thuốc có tính vị giống nhau thì có tác dụng giống nhau.
Ví dụ:
Hoàng bá, hoàng cầm đều có vị đắng, tính hàn, chúng đều có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp, chống viêm.
Quế chi, bạch chỉ có vị cay, tính ôn, chúng đều có tác dụng tán hàn, giải biểu, phát hãn, thông kinh, hoạt lạc, giảm đau.
5.2. Một số vị thuốc cùng tính nhưng vị khác, tác dụng khác nhau Ví dụ:
Hoàng liên, sinh địa cùng tính hàn, nhưng hoàng liên vị đắng còn sinh địa vị đắng nhẹ, ngọt. Hoàng liên có tác dụng táo thấp, sinh địa có tác dụng tư âm, lương huyết, sinh tân, chỉ khát. Ma hoàng, hạnh nhân đều có tính ấm, nhưng ma hoàng có vị cay, tác dụng phát hãn, hạnh nhân có vị đắng, tác dụng hạ khí.
Sơn thù du tính ấm, vị chua, tác dụng thu liễm. Hoàng kì tính ấm, vị ngọt tác dụng bổ khí.
5.3. Một số vị thuốc có vị giống nhau, tính khác nhau, tác dụng cũng khác nhau
Ví dụ:
Bạc hà vị cay, tính lương, tác dụng giải cảm nhiệt. Tô diệp vị cay, tính ôn, tác dụng giải cảm hàn.
Sa nhân vị cay, tnhs ấm, tác dụng hành khí, giảm đau, kiện tỳ, hóa thấp. Phụ tử vị cay, tính nhiệt, tác dụng trợ dương, cứu nghịch.
5.4. Những vị thuốc có tính và vị khác nhau có tác dụng khác nhau Ví dụ:
Nhục quế vị cay, tính đại nhiệt, tác dụng ôn trung khử hàn. Hoàng liên vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt táo thấp.
Ô mai vị chua, tính ấm, tác dụng thu liểm, chỉ ho, sinh tân, chỉ khát.
5.5. Tính và vị của thuốc cũng thay đổi khi tiến hành chế biến theo các phương pháp chế của dược học cổ truyền và tác dụng của nó cũng thay đổi.
Ví dụ:
Sinh địa vị đắng, tính hàn, tác dụng lương huyết. Sau khi chế biến thành thục địa, tính trở nên ấm, vị ngọt, tác dụng bổ huyết.
Đổ trọng vị ngọt, hơi cay sau khi trích muối có thêm vị mặn, tăng cường tác dụng bổ can thận…
6. KHUYNH HƯỚNG THĂNG, GIÁNG, PHÙ, TRẦM
Khuynh hướng thăng, giáng, phù, trầm chỉ 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc cổ truyền, cầm nắm chắc khuynh hướng đó để phát huy hiệu quả sử dụng. Khuynh hướng tác dụng của thuốc đa số các trường hợp là ngược chiều với bệnh mới đạt hiệu quả.
6.1. Thăng
Khuynh hướng khí vị của thuốc hướng lên thượng tiêu. Mục đích chữa các bệnh có khuynh hướng sa giáng. Các vị thuốc chủ thăng thường có tính chất kiện tỳ ích, khí thăng dương khí như: Hoàng kỳ, đẳng sâm, thăng ma, sài hồ.
6.2. Giáng
Khuynh hướng khí vị của thuốc hướng xuống hạ tiêu. Mục dích chữa các bệnh có khuynh hướng đi lên thượng tiêu như hen suyễn khó thở, ho đờm, nôn mửa. Các vị thuốc chủ giáng thường có tính chất hạ khí, giáng khí, bình suyễn như: Ma hoàng, hạnh nhân, cát cánh… (hạ phế, khí nghịch), thị đế, bán hạ, phục long can…(hạ vị khí nghịch).
6.3. Phù
Khuynh hướng khí vị của thuốc hướng ra bên ngoài (biểu). Mục đích chữa các bệnh có xu hướng lấn sâu vào bên trong (lý) như cảm mạo phong hàn, phong nhiệt. Các vị thuốc chủ phù thường có tính chất phát hãn, hát tán, giải biểu, hạ nhiệt như: Quế chi, phòng phong, tế tân, bạch chỉ…(tân ôn giải biểu), cát căn, cúc hoa, tang diệp, mạng kinh tử… (tân lương giải biểu).
6.4. Trầm
Khuynh hướng khí vị của thuốc hướng đi vào bên trong (lý). Mục đích chữa các bệnh có xu hướng ra ngoài (phù nổi ra ngoài biểu) như đạo hãn, tự hãn, phù thủng, mụn nhọt, ban chẩn, dị ứng, mẩn ngứa. Các vị thuốc chủ trầm như: thuốc thẩm thấp lợi niệu (kim tiền thảo, sa tiền tử, tỳ giải…), thuốc tả hạ (đại hoàng, mang tiêu, trầm hương, tô mộc…) hoặc thuốc thanh nhiệt giải độc (liên kiều, bò công anh, kim ngân hoa, sài đất…).
* Tóm lại: Các thuốc có tính thăng phù có tác dụng phát hãn, thăng dương, tán hàn. Các thuốc có tính trầm giáng có tác dụng tiềm dương, giáng nghịch, thanh nhiệt, thẩm thấp, tả hạ, thu liễm. Tuy nhiên các tác dụng nói trên không cố định mà có tính chất tương đối vì thông qua chế biến và phối ngũ các vị thuốc sẽ làm thay đổi hoặc giảm đi khuynh hướng vốn có của từng vị thuốc.
Trog khi chế biến và sử dụng cũng cần chú ý: Các thuốc có tính thăng, phù không nên đun lâu và dùng lửa nhỏ (lửa văn), các thuốc có tính trầm, giáng thì có thể đun lâu và có thể dùng lửa to (lửa vũ).
7. SỰ QUI KINH CỦA THUỐC
7.1. Định nghĩa
Qui kinh là sự qui nạp tác dụng của thuốc vào tạng phủ, kinh mạch. Mỗi vị thuốc có thể qui nạp vào một hoặc nhiều kinh khác nhau.
7.2. Cơ sở của sự qui kinh
Dựa vào học thuyết ngũ hành, tạng tượng, kinh lạc, màu sắc, mùi vị và dựa vào thực tiễn lâm sàng từ đó biết được sự qui kinh của thuốc.
Thuốc có màu xanh, vị chua qui vào hành mộc (tạng can, phù đởm), màu đỏ, vị đắng qui vào hành hỏa (tạng tâm, phủ tiểu tràng), màu vàng, vị ngọt qui vào hành thổ (tạng tỳ, phủ vị), màu trắng, vị cay qui nạp vào hành kim (tạng phế, phủ đại tràng), màu đen, vị mặn qui vào hành thủy (tạng thận, phủ bàng quang).
Sự qui kinh của thuốc mang tính chất tương đối. Một số vị thuốc có tính, vị giống nhau nhưng sự qui kinh là khác nhau thì tác dụng cũng khác nhau như: Hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, chi tử đều có vị đắng, tính hàn; chúng đều có tác dụng là thanh nhiệt, nhưng hoàng liên qui vào kinh tâm có tác dụng thanh tâm; hoàng bá qui vào kinh thận có tác dụng chữa thận hỏa, phế ung; chi tử qui vào kinh tam tiêu dùng trị tam tiêu hỏa.
Trong chế biến thuốc y học cổ truyền đã vận dụng sự qui kinh của thuốc để làm tăng tác dụng hoặc làm thay đổi tác dụng của thuốc nhằm đạt hiệu quả cao trong điều trị như: Đổ trọng, hương phụ, trạch tả… trích với muối ăn để tăng nạp thuốc vào kinh thần hay xương bồ tẩm với chu sa để tăng nạp thuốc vào kinh thần…
8.TƯƠNG TÁC THUỐC CỔ TRUYỀN
Thuốc cổ truyền có một số trường hợp tương tác sau:
8.1. Tương tu (tác dụng hiệp đồng)
Hai vị thuốc có tính, vị giống nhau khi phối hợp thì tác dụng điều trị tốt hơn như: Kim ngân phối hợp với liên kiều làm tăng tác dụng thanh nhiệt, giải độc khi trị bệnh mụn nhọt, lở ngứa, dị ứng. Sinh địa kết hợp với huyền sâm tăng tác dụng lương huyết, chỉ huyết. Hoàng liên dùng với liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hỏa. Đại hoàng dùng với mang tiêu tăng tác dụng tả hạ…
8.2. Tương sử (tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị khác nhau)
Hai vị thuốc có tính vị khác nhau, khi dùng chung tác dụng tăng lên như: Liên kiều vị đắng tính hàn, ngô thù du vị cay tính ấm khi dùng chung tác dụng cầm nôn tăng lên do chúng có khả năng hạn chế tiết nước bọt và dịch vị.
8.3. Tương úy (ức chế độc tính của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị này ức chế độc tính của vị kia (nếu có) như: Sinh khương dùng chung với bán hạ, sinh khương làm mất tác dụng phụ gây kích ứng họng, buồn nôn, lợm
giọng của bán hạ (bán hạ úy sinh khương). Nhân sâm úy ngũ linh chi, ô đầu úy tê giác, đinh hương úy uất kim,…
8.4. Tương ác (kiềm chế tính năng, tác dụng của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị này kiềm chế tính năng của vị kia như: Hoàng cầm dùng với sinh khương thì hoàng cầm sẽ kiềm chế tính ám của sinh khương (sinh khương vị cay, tính ấm; hoàng cầm vị đắng, tính hàn)…
8.5. Tương sát (tiêu trừ độc tính của nhau)
Khi phối hợp 2 vị thuốc với nhau, vị thuốc này có thể làm mất độc tính cảu vị thuốc kia như: Phòng phong trừ độc của thạch tín, đậu xanh trừ độc ba đậu. Vì vậy, vận dụng tương sát để giải độc.
8.6. Tương phản
Hai vị thuốc được gọi là tương phản khi dùng phối hợp sẽ gây ra phản ứng không tốt hay gây thêm độc tính cho cơ thể. Ví dụ như: Ba đậu phản khiên ngưu; cam thảo phản cam toại; hải tảo, bạch cập phản bán hạ; bối mẫu, qua lâu nhân phản ô đầu; các loại sâm phản lệ lô… Ngoài ra còn có đơn hành là khi dùng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh như: Dùng riêng một vị nhân sâm (độc sâm thang) cũng có tác dụng bổ khí, nhất là khi cơ thể vô lực, thoát dương, mệt mỏi…
Một vị tam thất cũng có tác dụng chỉ huyết, bồi bổ cơ thể nhất là đối với phụ nữ.
* Tóm lại: Khi tiến hành chế biến, phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý các trường hợp tương tác nói trên, ta khai thác những tương tác có lợi cho sức khỏe và tăng hiệu quả chữa bênh, đồng thời tránh các trường hợp tương phản, tương ác… để tránh các hậu quả không tốt và tác dụng kém khi dùng thuốc.
B. PHÂN LOẠI THUỐC CỔ TRUYỀN
Có nhiều phương pháp phân loại thuốc cổ truyền:
1. Phân loại theo tính chất (lấy độc tính làm trung tâm)
Phương pháp này dựa vào tính chất và tác dụng của thuốc để phân ra 3 loại:
- Thuốc thượng phẩm: Thuốc có tac dụng bổ dưỡng cơ thể là chính, không có độc tính.
- Thuốc trung phẩm: Thuốc có tác dụng bổ dưỡng và chữa bệnh, có ít độc tính.
- Thuốc hạ phẩm: Thuốc có tác dụng chữa bệnh nặng song có độc tính cao.
2. Phân loại theo tính vị
Phương pháp này dựa vào tính vị thuốc để phân loại:
- Thuốc tân ôn giải biểu (thuốc giải biểu cay ấm)
- Thuốc tăng lương giải biểu (thuốc giải biểu cay mát)
- Thuốc ôn trung (thuốc làm ấm bên trong)
- Thuốc ôn bổ (thuốc bổ ấm)..
3. Phân loại theo tác dụng chữa bệnh của y học cổ truyền
- Thuốc phát tán phong hàn
- Thuốc phát tán phong nhiệt
- Thuốc thanh nhiệt
- Thuốc trừ đờm, chỉ ho, bình suyễn
- Thuốc trấn kinh, an thần…
4. Phân loại dựa vào tính vị và tác dụng của thuốc