hình khác. Ví dụ: tài nguyên năng lượng, tài nguyên nước, chất hữu cơ… là tài nguyên đầu vào cho tài nguyên thực vật, đến lượt mình tài nguyên thực vật lại là tài nguyên đầu vào cho tài nguyên động vật và tài nguyên nhân lực (tài nguyên sức lao động - Work force resources). Xa hơn nữa, con người lại là tài nguyên có thể sử dụng mọi dạng tài nguyên khác.
- Tài nguyên vô hình (Invisible resources): là tài nguyên mà con người sử dụng cũng đem lại hiệu quả thực tế cao nhưng nó tồn tại ở dạng “không trông thấy”, có nghĩa là trữ lượng của dạng tài nguyên này là bao nhiêu, ở mức độ nào thì con người chưa thể xác định được mà chỉ thấy được hiệu quả to lớn do dạng tài nguyên này đem lại mà thôi. Ví dụ: tài nguyên trí tuệ, tài nguyên văn hóa, tài nguyên sức lao động…
5.4.1.2 Đánh giá tài nguyên
Người ta có thể đánh giá tài nguyên theo nhiều cách khác nhau, với những mục đích khác nhau. Giá trị của tài nguyên được đánh giá cao hay thấp, tốt hay không thật tốt phụ thuộc vào trình độ khoa học kỹ thuật của thời đại và trình độ nhận thức của từng đối tượng khác nhau. Vì vậy, cùng một loại tài nguyên nhưng ở thời đại nguyên thủy được xem là không cần, không quý, thậm chí còn có thể coi là đồ bỏ (không có giá trị), nhưng đến thời đại chúng ta, khi khoa học kỹ thuật đã thực sự phát triển thì nó lại trở nên vô cùng có giá trị, thậm chí rất quý và rất hiếm. Ví dụ: mỏ Uranium, vào thời nguyên thủy người ta chưa biết Uranium là gì nên không cho nó là quý, hiếm; ngược lại, ngày nay người ta đã biết nó là khoáng sản nguyên liệu rất cần cho các nhà máy điện nguyên tử thì nó lại trở nên quý giá. Trong lĩnh vực “tài nguyên môi trường”, một số chất thải ở một xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật thấp có thể bị loại bỏ hoàn toàn, nhưng trong một xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật cao, nó lại là nguyên liệu quý cho một quá trình sản xuất tiếp theo. Ví dụ: giấy viết xong như trước đây là “đồ bỏ” nhưng từ khi có công nghệ tái chế giấy ra đời thì giấy loại lại trở thành nguyên liệu cho công nghệ tái chế giấy hay bìa carton.
Về mặt kinh tế, người ta cần dựa vào giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa trao đổi để đánh giá một loại tài nguyên nào đó.
Đối với tài nguyên khoáng sản, người ta đánh giá không những dựa vào giá trị kinh tế mà còn dựa vào hàm lượng và trữ lượng của khoáng sản đó. Từ đó, người ta chia giá trị tài nguyên khoáng sản thành:
- Tài nguyên có giá trị kinh tế cao, tài nguyên có giá trị kinh tế trung bình, tài nguyên có giá trị kinh tế thấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Du lịch sinh thái - 12
- Phân Loại Môi Trường Theo Vị Trí Địa Lý, Độ Cao:
- Du lịch sinh thái - 14
- Du lịch sinh thái - 16
- Du lịch sinh thái - 17
- Khu Bảo Tồn Tài Nguyên Động Thực Vật
Xem toàn bộ 415 trang tài liệu này.
- Tài nguyên quý (Value resources), không hiếm
- Tài nguyên hiếm (Rare resources), giá trị quý không cao lắm
- Tài nguyên quý - hiếm:
- Tài nguyên có giá trị tiềm tàng cao.
- Tài nguyên có giá trị tiềm tàng không cao mà chỉ có giá trị hiện tại cao.
- Tài nguyên có giá trị trao đổi và tài nguyên không có giá trị trao đổi.
Giá trị của tài nguyên còn được hiểu theo nghĩa tài nguyên của ai? và tài nguyên cho ai?
- Tài nguyên có thể là của một cá nhân và giá trị của nó trước hết là do người sử dụng xác định, vì không ai khác ngoài người sử dụng có thể hiểu rõ và đánh giá đúng thực chất về giá trị của tài nguyên đó.
- Tài nguyên có thể là của một quần thể, một tập thể người nhất định nào đó mà chỉ với họ giá trị của tài nguyên mới được xác định chính xác.
- Tài nguyên của toàn thể cộng đồng thế giới.
5.4.2 TÀI NGUYÊN DLST
5.4.2.1 Các dạng tài nguyên DLST
Tài nguyên trong DLST được phân thành tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn có quan hệ mật thiết với các nhân tố con người và xã hội. Nói đến tài nguyên DLST, ta không thể không kể đến tài nguyên thiên nhiên; tuy nhiên, có sự gắn kết yếu tố du lịch vào trong tài nguyên nên được gọi là tài nguyên du lịch hay tài nguyên DLST. Như vậy:
“Tài nguyên DLST là các yếu tố cơ bản để hình thành các điểm, các tuyến hoặc các khu DLST; bao gồm các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, giá trị nhân văn, các công trình sáng tạo của nhân loại có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn cho nhu cầu về DLST.
Lấy thiên nhiên và văn hóa bản địa làm cơ sở để phát triển, tài nguyên DLST là một bộ phận cấu thành trong tài nguyên du lịch, bao gồm các giá trị của tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hóa bản địa tồn tại và phát triển không tách rời khỏi hệ sinh thái tự nhiên đó. Tuy vậy, không phải bất cứ mọi giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa đều được xem là tài nguyên DLST, mà chỉ có
các thành phần và các tổng thể tự nhiên, các giá trị văn hóa gắn với một hệ sinh thái cụ thể có thể được khai thác, được sử dụng để tạo ra các sản phẩm DLST, phục vụ cho mục đích phát triển du lịch nói chung, DLST nói riêng mới được xem là tài nguyên DLST.
Tài nguyên DLST bao gồm tài nguyên đã và đang khai thác và tài nguyên mà triển vọng là sẽ khai thác. Khả năng khai thác tài nguyên DLST phụ thuộc vào:
- Khả năng nghiên cứu, phát hiện và đánh giá các tiềm năng của tài nguyên
- Mức độ yêu cầu để phát triển sản phẩm DLST nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và càng đa dạng của du khách
- Khả năng tiếp cận để khai thác các tiềm năng của tài nguyên DLST
- Trình độ tổ chức quản lý đối với việc khai thác tài nguyên DLST
Nói chung, tài nguyên DLST rất đa dạng và phong phú. Một số loại tài nguyên DLST chính thường được khai thác và phục vụ nhu cầu của khách DLST bao gồm:
- Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù, đặc biệt là nơi có tính đa dạng sinh học cao với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm (các vườn quốc gia, các khu BTTN, các khu dự trữ sinh quyển...)
- Các hệ sinh thái nông nghiệp (vườn cây ăn trái, làng hoa...)
- Các giá trị văn hóa bản địa có sự hình thành và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái tự nhiên như các phương thức canh tác, các lễ hội, sinh hoạt truyền thống dân tộc...
Khi nghiên cứu về DLST, các thuật ngữ về hệ sinh thái (Ecosystem), đa dạng sinh học (Biodiversity), đa dạng sinh thái (Ecodiversity) chúng ta đã có dịp tìm hiểu ở các chương trước. Ở đây, chúng tôi lý giải thêm phần văn hóa bản địa mà thôi. Theo đó, “văn hóa bản địa là các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành trong quá trình phát triển của một cộng đồng dân cư, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa thế giới tự nhiên và con người trong không gian của một hệ sinh thái tự nhiên cụ thể”. Văn hóa bản địa là một trong những bộ phận cấu thành nên đa dạng văn hóa, tạo nên sự đa dạng về sinh học.
5.4.2.2 Đặc điểm của tài nguyên DLST
a. Tài nguyên DLST phong phú và đa dạng:
Tài nguyên DLST được hình thành trên nền tảng các tài nguyên trong tự nhiên, mà bản thân tự nhiên thì rất đa dạng và phong phú, vì thế tài nguyên DLST cũng có chung đặc điểm này. Tài nguyên DLST bao gồm những hệ sinh thái đặc biệt, là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển của nhiều loài sinh vật quý hiếm. Như vậy, tài nguyên DLST có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách.
b. Tài nguyên DLST thường nhạy cảm với các yếu tố tác động:
So sánh với nhiều loại tài nguyên du lịch khác, tài nguyên DLST thường rất nhạy cảm đối với những tác động của con người. Bất kỳ một sự tác động nào làm thay đổi tính chất của tự nhiên hoặc một hợp phần của tự nhiên hoặc làm suy giảm hay mất đi một số loài sinh vật cấu thành nên hệ sinh thái nào đó dưới tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi và thậm chí làm biến mất hệ sinh thái đó và kết quả là một diễn thế sinh thái mới xuất hiện. Trong trường hợp này, tài nguyên DLST bị ảnh hưởng với những mức độ khác nhau.
c. Thời gian khai thác tài nguyên DLST là không đồng nhất:
Có loại tài nguyên DLST có thể khai thác được quanh năm, cũng có loại tài nguyên DLST khai thác theo thời vụ; chủ yếu dựa vào các yếu tố khí hậu, mùa di cư, sự sinh sản của các loài sinh vật... Ví dụ, do đặc trưng khai thác về cây ăn trái nên du khách chỉ có thể đến vườn cây ăn trái Lái Thiêu vào mùa rộ trái mà thôi, các mùa khác du khách đến sẽ mất đi tính chất DLST vườn cây ăn trái. Vì vậy, để khai thác tốt tiềm năng tài nguyên DLST các nhà quản lý, các nhà điều hành DLST cần phải nghiên cứu và hiểu rõ tính chất thời vụ của các loại tài nguyên DLST để đưa ra những giải pháp hợp lý với mỗi hoàn cảnh khai thác.
d. Tài nguyên DLST thường nằm xa các khu dân cư và thường được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch:
Một đặc điểm có tính đặt trưng của tài nguyên DLST là chúng thường nằm cách xa các khu dân cư; bởi chúng sẽ nhanh chóng suy giảm, bị biến đổi, thậm chí không còn nữa, do tác động trực tiếp của người dân như săn bắn, chặt cây… nhằm thoả mãn cho các nhu cầu cuộc sống của mình. Điều này giải thích tại sao phần lớn tài nguyên DLST lại nằm trong phạm vi các KBTTN, các khu BTTN - nơi có sự quản lý chặt chẽ.
Khác với các loại tài nguyên khác, sau khi được khai thác có thể vận chuyển đi nơi khác để chế biến nhằm tạo ra sản phẩm rồi lại được đưa đến tận nơi tiêu thụ, tài nguyên du lịch nói chung, tài nguyên DLST nói riêng thường được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm nhằm thỏa mãn cho các nhu cầu của du khách. Trong
một số trường hợp thực tế có thể tạo ra các vườn thực vật, các công viên với nhiều loài sinh vật đặc hữu trong môi trường nhân tạo để du khách tham quan, thưởng ngoạn. Tuy nhiên, các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm của DLST đích thực, chúng được tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch của đại chúng, đặc biệt ở các đô thị lớn, nơi mà người dân ít có điều kiện đến các khu tự nhiên.
Do những đặc điểm trên nên có thể khai thác có hiệu quả tài nguyên DLST, cần thiết phải có được điều kiện hạ tầng cơ sở thuận lợi nhằm tiếp cận với các khu vực tiềm năng. Thực tế cho thấy những vườn QG, khu BTTN, miệt vườn, sân chim… nơi nào có vị trí địa lý thuận lợi, tiện đường giao thông thì hoạt động du lịch nói chung, DLST nói riêng sẽ phát triển hơn. Ngược lại, có nhiều tài nguyên DLST đặc sắc như hệ sinh thái núi cao Fanxipan, khu bảo tồn Bidoup- Núi Bà; hệ sinh thái đất ngập nước nội địa Hà Tiên, rừng tràm U Minh; hệ sinh thái rừng ngập mặn Năm Căn; hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới trên núi đá vôi ở khu bảo tồn Phong Nha- Kẻ Bàng… còn chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng và chưa thu hút được khách du lịch là do một số nguyên nhân, song chủ yếu là điều kiện giao thông và cơ sở hạ tầng còn gặp nhiều khó khăn.
e. Tài nguyên DLST có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài
Phần lớn các tài nguyên du lịch, trong đó có tài nguyên DLST được xếp vào loại tài nguyên có thể tái tạo và sử dụng lâu dài. Điều này dựa trên khả năng tự phục hồi, tái tạo của tự nhiên. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều loại tài nguyên DLST đặc sắc như các loài sinh vật đặc hữu, quý hiếm hoàn toàn có thể biết mất do những tai biến tự nhiên hoặc do các tác động của con người. Vấn đề được đặt ra là cần phải nắm được các quy luật của tự nhiên, lường trước được những tác động của con người lên tự nhiên nói chung, lên tài nguyên DLST nói riêng để có những giải pháp, những định hướng để khai thác một cách có hiệu quả; tôn tạo, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng cho việc phát triển du lịch. Đây cũng là yêu cầu sống còn của du lịch nhằm góp phần phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch bền vững là một trong những yêu cầu cơ bản nhằm đảm bảo cho nguồn tài nguyên du lịch nói chung, DLST nói riêng ít bị tổn hại. Ngoài ra, phát triển du lịch bền vững càng làm cho các điểm du lịch và các khu du lịch trở nên hấp dẫn hơn, đáp ứng cho nhu cầu phát triển DLST trong hiện tại và tương lai.
5.4.2.3 Quan hệ giữa DLST và phát triển
a. Quan hệ giữa ĐDSH và DLST
Như đã trình bày ở các chương trước, DLST lấy tự nhiên làm nền tảng cho sự phát triển. Chính vì vậy, sự phong phú của thế giới tự nhiên quyết định lên giá trị của các sản phẩm DLST. Như vậy, việc bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là mục tiêu của riêng ngành DLST mà là mục tiêu chung của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều quốc gia nhằm tìm kiếm sự hòa thuận chung của con người và động vật với môi trường sinh thái.
Qua đó ta thấy, ĐDSH là một tài nguyên của DLST, không thể tách rời đa dạng sinh học ra khỏi DLST, là một hợp phần trong nhiều thành phần tạo nên DLST. Vậy ĐDSH là gì?. “ĐDSH là tổng hợp toàn bộ các gen, các loài và các hệ sinh thái. Đó là sự biến đổi liên tục theo tiến hoá để tạo ra các loài mới trong điều kiện sinh thái mới khi những loài khác biến đi.”
Xét về tổng thể ĐDSH không chỉ tạo nên cuộc sống ngày nay mà nó còn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc duy trì và phát triển cuộc sống này. Nhìn từ khía cạnh DLST thì ĐDSH là nhân tố không thể thiếu để từ đó xây dựng các chương trình DLST. Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được DLST là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao.
ĐDSH bao gồm: đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng sinh thái. Chính sự đa dạng về gen (đa dạng di truyền), đa dạng loài góp phần tạo nên đa dạng về hệ sinh thái, bởi ngoài yếu tố vô sinh như đất, nước, địa hình, khí hậu…hệ sinh thái còn bao gồm các quần xã sinh vật. Nhiều quần thể tập hợp thành quần xã, như vậy theo cơ chế tổ hợp của một lượng hàng triệu cá thể của các quần thể ta sẽ có rất nhiều các quần xã sinh vật. Mỗi quần xã thích nghi với điều kiện sống ở một số nơi nào đó trên hành tinh. Trong sự tồn tại và phát triển, thế giới sống có quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên. Mối quan hệ này là 2 chiều, sự đa dạng về sinh vật được nhân lên khi gắn kết với sự đa dạng về sinh cảnh. Đó chính là nguyên nhân giải thích tại sao trên hành tinh chúng ta có vô vàn các hệ sinh thái khác nhau cùng tồn tại.
Nếu không có ĐDSH thì không có DLST vì du khách thưởng thức những sự phong phú các loại hình sinh thái (đất, nước, cây, con…), không ai đi DLST nơi sa mạc, nơi không có cây mọc và thú vật nào sinh sống. Điều đó chứng tỏ mối liên kết không thể tách rời giữa ĐDSH và DLST, muốn phát triển DLST ở một nơi nào đó thì bắt buộc nơi đó phải có sự phong phú về ĐDSH.
Đứng ở góc độ DLST, thì ĐDSH bao gồm cả sự đa dạng về văn hóa – là sự thể hiện của con người, một thành viên của thế giới sinh vật, đồng thời là nhân tố
quan trọng thuộc các hệ sinh thái. Trong đó văn hóa bản địa là một bộ phận đặc biệt của đa dạng văn hóa, góp phần tạo nên nền văn hóa nói chung của một dân tộc, một quốc gia. Văn hóa bản địa chính là các giá trị về vật chất tinh thần được hình thành trong quá trình phát triển của một cộng đồng dân cư, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa thế giới tự nhiên và con người trong không gian của một hệ sinh thái tự nhiên cụ thể.
Cả 4 thành phần trên của ĐDSH đều tham gia vào việc xây dựng hình thành hoạt động DLST. Mặt khác DLST cũng tác động ngược lại đối với ĐDSH, nó góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị ĐDSH nhằm phát triển bền vững trong tương lai.
ĐDSH với các đối tượng tham gia hoạt động DLST
Các đối tượng tham gia xây dựng hoạt động du lịch sinh thái bao gồm: Các nhà hoạch định chính sách; Các nhà điều hành du lịch; Các nhà quản lý lãnh thổ; Hướng dẫn viên du lịch. Họ là những người phải quan tâm đến tất cả các thành phần của ĐDSH – cơ sở để xây dựng một mô hình DLST bền vững.
Các nhà hoạch định chính sách: là những người làm công tác quy hoạch, xây dựng các chính sách phát triển DLST trong các viện nghiên cứu, cơ quan nhà nước. Họ có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tìm hiểu tính ĐDSH cho một khu vực, họ là những người phát hiện, điều tra ra những tính chất đặc trưng về ĐDSH của khu vực (đặc trưng về gen, loài, sinh thái) để từ đó xây dựng một mô hình du lịch bền vững cho khu vực đó.
Các nhà quản lý lãnh thổ: Họ là những người có vai trò quyết định đối với sự bảo tồn và phát triển của một khu DLST. Trong đó, các yếu tố đa dạng về gen, loài, sinh thái sẽ được họ trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát thông qua việc kiểm soát sự biến đổi của hệ sinh thái và môi trường tự nhiên trong phạm vi được quản lý.
Các nhà điều hành du lịch: Họ là những người tổ chức, điều hành cụ thể hoạt động du lịch sinh thái, họ trực tiếp xác định các phương thức tiến hành hoạt động, lựa chọn địa điểm tổ chức DLST, xây dựng các chương trình du lịch phù hợp với các dịch vụ có thể cung ứng trong điều kiện địa phương. Vì vậy họ phải là người am hiểu về môi trường sinh thái khu vực. Một hệ sinh thái đặc trưng về địa hình, chế độ thuỷ văn, quần thể sinh vật đặc thù…sẽ là nhân tố quyết định để các nhà điều hành du lịch thực hiện trách nhiệm của mình.
Hướng dẫn viên du lịch: Là những người có kiến thức, nắm được đầy đủ thông tin về môi trường tự nhiên, các đặc điểm các loại hình sinh thái, tính đa dạng và độ
phong phú của loài, tính thích nghi và tính đặc trưng của hệ sinh thái, văn hoá cộng đồng địa phương để giới thiệu một cách sinh động nhất, đầy đủ nhất với du khách về những vấn đề đã thúc giục họ tham gia tuyến DLST của khu vực.
Khách du lịch:
Khách du lịch là đối tượng chính của DLST, chính những nét đặc trưng về ĐDSH của khu vực đã thu hút họ tham gia hoạt động du lịch. Tuy nhiên cần phân biệt giữa khách du lịch và khách DLST, hiện nay 2 khái niệm này vẫn chưa được phân biệt rạch ròi. Ở các nước đang phát triển thì khái niệm DLST vẫn còn manh nha, nhiều khi bị cho là một.
Người ta chia ra khách du lịch thành các đối tượng chính sau:
o Khách du lịch tình cờ, ngẫu nhiên hoặc những người muốn tham gia vào chuyến du lịch lạ thường đến với thiên nhiên. Đối với những đối tượng này thì những nét đặc trưng, độc đáo về quần xã sinh vật, văn hoá bản địa của khu du lịch sẽ, gây ấn tượng cho họ. Tuy nhiên, đây cũng là đối tượng nguy hiểm nhất (trong 3 đối tượng tham gia hoạt động du lịch sinh thái) đối với sự ĐDSH. Do tình cờ ngẫu nhiên đến với khu du lịch nên những điều khác thường, đặc biệt nơi đây thường kích thích sự tò mò của ho, vì vậy họ có thể có những hành động gây hại hoặc phá huỷ hệ sinh thái của khu vực như hái hoa, bẻ cành…
o Khách du lịch có lòng say mê thiên nhiên, họ luôn muốn có được những chuyến đi đến những nơi có hệ sinh thái đặc trưng như như các vườn quốc gia, khu bảo tồn (nơi lưu giữ, duy trì và phát triển sự đa dạng về gen, loài của một vùng đặc trưng). Họ thường là những người có tầm hiểu biết, có trình độ, họ ý thức được tầm quan trọng và giá trị của tự nhiên và giá trị nhân văn. Họ thực sự là đối tượng của DLST.
o Đối tượng thứ 3 làcác nhà khoa học, các thành viên của các dự án bảo tồn…. Đây là những người thực hiện sứ mệnh bảo tồn ĐDSH của nhân loại. Họ tham gia nghiên cứu, tìm hiểu và khám phá những nét độc đáo, đặc trưng về đa dạng gen, loài và đa dạng hệ sinh thái. Đó là các vấn đề chính mà họ quan tâm, việc tham gia vào hoạt động DLST của họ mang ý nghĩa công việc nhiều hơn là nghỉ ngơi, giải trí.
Sự tuyệt chủng và DLST
Hiện nay con người đã biết và mô tả được 1,7 triệu loài trong số 30 triệu loài dự đoán có được trên hành tinh. Tuy nhiên, có khoảng 5-10% số loài trên thế giới