Tiến Trình Giờ Dạy Học Được Triển Khai Như Sau:


Hai nguyên nhân khách quan: Chiến tranh tàn phá sách vở; thời gian làm mai một sách vở.

Câu hỏi 3) Hãy nhận xét cách lập luận của tác giả? Lập luận chặt chẽ, lô gíc

Câu hỏi 4) Theo cảm nhận của em, tác giả là một người như thế nào?

Tác giả là người có ý thức, trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc, luôn tự hào về nền văn hiến dân tộc.

2.1.3.4. ý kiến của giáo viên

Cô Nguyễn Thị Thiên Sinh nói: Đây là bài nghị luận rất hay, có kết cấu chặt chẽ, lập luận khúc triết giàu tính biểu cảm và tính thuyết phục. Thể hiện được truyền thống yêu nước, tấm lòng trân trọng, tự hào và ý thức trách nhiệm đối với di sản thơ ca dân tộc trong việc bảo tồn di sản văn học của cha ông ta.Vì thế văn bản này có tinh giáo dục rất lớn: Giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ HS, HS biết thể hiện lòng yêu nước của mình bằng suy nghĩ và việc làm đúng đắn với các di sản của dân tộc. Qua bài học, HS có dịp học tập và rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận. Tuy nhiên, việc dạy học văn bản này còn gặp nhiều khó khăn vì: Lần đầu tiên thầy trò chúng tôi được làm quen với loại văn bản này, vốn hiểu biết về thể loại chưa nhiều, kinh nghiệm tiếp cận chưa từng trải, đây lại là văn bản nghị luận không tạo được sức hấp dẫn lắm từ phía HS, nên ban đầu HS chưa thật hứng thú học.

Chúng tôi hy vọng rằng các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp tâm huyết có thể chia sẻ với chúng tôi, giúp chúng tôi có được giờ dạy học về văn bản này thật sự thành công.

Nhận xét: Với cách tổ chức quá trình dạy học như vậy, GV đã thể hiện được sự đổi mới trong việc tiếp nhận tác phẩm văn chương trong nhà trường; bố cục triển khai bài học khá rõ ràng, trình tự hợp lí; hệ thống câu hỏi


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

phù hợp; thể hiện rõ ràng công việc của GV và HS. Tuy nhiên, GV cần khắc phục những tồn tại sau:

- Cần làm rõ đặc điểm của thể loại Tựa tạo tri thức nền tảng cho HS khi tiếp cận thể loại này.

Dạy - học văn bản tựa và văn bia trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại - 6

- Khai thác rõ hơn nghệ thuật viết văn nghị luận hòa quyện với trữ tình, biểu cảm làm nên giá trị độc đáo của tác phẩm.

2.2 Giờ học “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”

Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy thực tiễn việc dạy học văn bản “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia” như sau:

Đa số GV đều có quan niệm rằng đây là văn bản hướng dẫn đọc thêm nên không quan trọng. Bởi vậy, việc hướng dẫn HS tìm hiểu về văn bản này chỉ được thực hiện một cách đại khái:

- Việc soạn giáo án cho giờ dạy học văn bản này rất sơ sài, hầu như các GV soạn không đầy một trang giấy với nội dung bài soạn đơn giản như sau:

ĐỌC THÊM “HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ QUỐC GIA”

1) Tầm quan trọng của hiền tài.

Câu hỏi: Hiền tài có vai trò quan trọng như thế nào đối với đất nước?

Định hướng: Người tài cao, học rộng là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước.

2) Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ.

Câu hỏi: Hãy nêu ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ?

Định hướng: Khuyến khích nhân tài, noi gương hiền tài ngăn ngừa điều ác; làm cho đất nước hưng thịnh, bền vững lâu dài.

3) Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia.

- Phải biết quý trọng nhân tài.

- Hiền tài có mối quan hệ sống còn đối với sự thịnh suy của đất nước.

- Thời gian lên lớp thực hiện bài dạy học văn bản này là 25 phút.


2.2.1. Tiến trình giờ dạy học được triển khai như sau:

I - Tiểu dẫn

II - Đọc hiểu khái quát văn bản

2.2.2. Hoạt động của thầy và trò

I - Tiểu dẫn( SGK)

II - Đọc – hiểu khái quát văn bản

1) Tầm quan trọng của hiền tài

GV hỏi: Hiền tài có vai trò quan trọng như thế nào đối với đất nước? HS trả lời

Định hướng: Người tài cao, học rộng là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước.

2) Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ

Câu hỏi: Hãy nêu ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ?

Định hướng: Khuyến khích nhân tài, noi gương hiền tài ngăn ngừa điều ác; làm cho đất nước hưng thịnh, bền vững lâu dài.

3) Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia

- Phải biết quý trọng nhân tài

- Hiền tài có mối quan hệ sống còn đối với sự thịnh suy của đất nước

2.2.3. Ý kiến của giáo viên:

Đa số các giáo viên đều có ý kiến rằng đây là một văn bản hay, có giá trị nhưng khó tạo được sức cuốn hút cho HS vì là văn bản nghị luận. Đây lại là văn bản hướng dẫn đọc thêm, không quan trọng nên không giành thời gian đầu tư nhiều về nó, chỉ hướng dẫn qua để HS nắm được ba điểm chính của bài học, đó là: Tầm quan trọng của hiền tài; ý nghĩa của việc khắc bia tiến sĩ; bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia tiến sĩ.

2.3. Nhận xét tổng quát về việc thực thi dạy học hai văn bản Tựa và Văn Bia


Qua quá trình khảo sát việc dạy học hai loại văn bản này ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi nhận thấy thực tế dạy và học hai loại văn bản này như sau:


2.3.1. Tình cảm của GV và HS đối với văn bản:

GV: Đa số GV đều cảm thấy đây là hai văn bản nghị luận rất hay, có giá trị về nhiều mặt nhưng để việc dạy học hai văn bản này đạt hiệu quả thì không dễ. Bởi vì đây là hai văn bản nghị luận nên khó tạo được sức cuốn hút cho HS như các văn bản nghệ thuật; tài liệu tham khảo cho hai loại văn bản này chưa nhiều.

HS: Đa số HS đều cảm thấy xa lạ, khô khan, nên không có hứng thú học.

2.3.2. Nội dung bài dạy:

Đối với văn bản tựa Trích diễm thi tập, GV đã chọn lọc những nội dung sau:

- Những thông tin về tác giả Hoàng Đức Lương, thể Tựa và tiêu đề Trích diễm thi tập ( phần Tiểu dẫn).

- Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không được lưu truyền đầy đủ cho đời sau.

- Nghệ thuật lập luận của tác giả.

- Quá trình biên soạn Trích diễm thi tập của tác giả Hoàng Đức Lương.

- Tấm lòng của tác giả với di sản văn hóa dân tộc.

Với những nội dung trên thì bài dạy học của GV đã tập trung phân tích

rõ:

Những nguyên nhân khiến thơ văn người xưa không được lưu truyền đầy

đủ cho thế hệ sau; quá trình biên soạn Trích diễm thi tập của tác giả Hoàng Đức Lương.

Còn những nội dung như: Đặc điểm thể Tựa; Nghệ thuật lập luận của tác giả; tâm tư, tình cảm của tác giả thì GV chỉ hướng dẫn HS tìm hiểu một cách sơ lựơc. Đây là những nội dung quan trọng cần phải khai thác rõ. Vì: Lần đầu


tiên HS có dịp tiếp xúc với loại văn bản này, vì thế việc nắm rõ về đặc điểm của nó là hết sức cần thiết. Có lẽ GV chưa nhận thức rõ điều này nên hầu như các bài dạy chưa chú trọng tới việc làm rõ đặc điểm thể loại của văn bản trước khi tìm hiểu chi tiết văn bản; Tâm tư, tình cảm của tác giả Hoàng Đức Lương là yếu tố tạo nên hình tượng tác giả . Vì thế, cảm nhận được tâm tư tình cảm của tác giả gửi gắm trong bài viết của mình mới có thể hiểu: tác giả là một người tri thức chân chính luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ dân tộc; có trái tim nhạy cảm biết đau đớn, xót xa trước những mất mát về tài sản tinh thần của dân tộc. Điều này cũng lí giải vì sao tác giả quyết tâm hoàn thành công việc sưu tầm, biên soạn của mình. HS không cảm nhận được những điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đã làm nghèo đi giá trị của văn bản; Khi tìm hiểu về nghệ thuật lập lận của tác giả, GV đều chưa dẫn dắt HS phân tích rõ mà chủ yếu chỉ khái quát lại là: Lập luận chặt chẽ, lô gích, thuyết phục người đọc.

Đối với văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia, GV hướng dẫn HS tìm hiểu sơ lược các nội dung:

- Tầm quan trọng của hiền tài

- Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ

Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia tiến sĩ

2.3.3. Phương pháp dạy học

Trong quá trình dạy học, GV đã có sự cố gắng trong việc áp dụng phương pháp dạy học hiện đại. Thể hiện rõ qua hoạt động của thầy và trò trong giờ học:

- Hoạt động của thầy: Thầy luôn giữ vai trò là nguời hướng dẫn, điều khiển HS tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Cụ thể, ở mỗi nội dung bài học thầy đưa ra những câu hỏi gợi dẫn để HS trao đổi, thảo luận rồi đưa ra câu trả


lời. Để tránh sự suy diễn chủ quan, tùy tiện của HS, sau mỗi câu trả lời của HS thì thầy giáo luôn có sự định hướng cụ thể.

- Hoạt động của trò: Trò chủ động, tích cực khám phá tri thức trong giờ học.Trước mỗi câu hỏi gợi dẫn của thầy; HS chủ động trao đổi , thảo luận và tích cực trình bày ý kiến của mình.

2.3.4. Hiệu quả giờ học

Với việc tổ chức giờ dạy học như vậy, đa số HS nắm rõ hai nội dung cơ bản:

- Những nguyên nhân khiến cho thơ văn của người xưa không được lưu truyền hết ở trên đời.

- Quá trình biên soạn Trích diễm thi tập của tác giả Hoàng Đức Lương.

Còn các nội dung như: Đặc điểm thểTựa; nghệ thuật lập luận của tác giả; hình tượng tác giả thì HS vẫn còn nhận thức một cách chung chung; chưa thật rõ ràng, đầy đủ.

Trên đây là cơ sở thực tiễn của việc dạy học hai văn bản thuộc thểTựa và thểVăn biatrong năm đầu thực thi SGK Ngữ văn 10. Cùng với những tiền đề lí luận thì thực tiễn này là cơ sở giúp chúng tôi đề xuất phương án dạy học hai loại văn bản này theo đặc trưng thể loại.


CHƯƠNG II

CÁC PHƯƠNG ÁN DẠY HỌC TỰA VĂN BIA ĐÃ ĐƯỢC ĐỀ XUẤT


Cùng với chương trình và SGK Ngữ văn mới được thực thi đại trà, những sách tham khảo cho GV và HS cũng được ấn hành. Nhưng chưa có một cơ quan chức năng nào, chưa có một người nào khảo xát, nghiên cứu hệ thống sách tham khảo này để chi ra đâu là phương án dạy học tối ưu cần được triển khai. Bởi thế, chúng tôi đã mạnh dạn tiến hành việc này để bước đầu rút ra một vài kết luận từ góc độ một người đứng lớp.

1.1 Hai phương án dạy văn bản tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương trong sách giáo viên (SGV) Ngữ văn 10 ( bộ chuẩn và bộ nâng cao)

1.1.1 Về mục tiêu bài học

Ngữ văn 10 bộ chuẩn nêu ra hai mục tiêu:

- Giúp HS hiểu niềm tự hào sâu sắc và ý thức trách nhiệm của Hoàng Đức Lương trong việc bảo tồn di sản văn học của tiền nhân.

- Có thái độ trân trọng và yêu quý di sản

SGV Ngữ văn 10 nâng cao

- Giúp HS hiểu tấm lòng trân trọng và tự hào của tác giả và không khí học thuật của thời đại.

Thấy được cách lập luận chặt chẽ, kết hợp với tính biểu cảm của bài Tựa. Người làm luận văn nghĩ rằng: Ở SGK đã có mục “ kết quả cần đạt”

cho nên ở SGV có thể có hoặc không về “ Mục tiêu cần đạt” nếu có thì phải lấy lại đầy đủ như ở SGK.Ở đây, SGV bộ chuẩn bỏ sót một mục tiêu :“ Nắm được nghệ thuật lập luận của tác giả”.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí