Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn CHDCND Lào từ năm 1991 đến năm 2010 - 3


trải dài dưới các vùng đồi núi rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gian súc. Tỉnh Bôlykhămxay có tiềm năng lớn về khoáng sản như than, sắt, thiếc, muối, thạch cao, đá quý, đồng, chì, kẽm, vàng...

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, tỉnh Bôlykhămxay đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trên con đường phát triển, nhất là trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, chủ yếu dựa vào nghề nông và khai thác lâm thổ sản; hệ thống giao thông kém phát triển, chưa có đường sắt, nên việc đi lại, trao đổi buôn bán giữa các địa phương trong tỉnh và hợp tác với bên ngoài còn gặp rất nhiều khó khăn.

Tỉnh Khămmuộn là tỉnh miền núi của Lào, có diện tích tự nhiên 16.315km2, dân số 55.985 người, mật độ dân số 22 người/km2. Trên địa bàn có quốc lộ 13, 12 và 8B đi qua, có hai cửa khẩu là Thà Khẹt - Nakhon Phannom giáp Thái Lan và Na Phào - Cha lo, tỉnh Quảng Bình - Việt Nam. Tỉnh Khămmuộn có 9 huyện, thị, gồm 1 thị xã Thà Khẹt (141 bản) và 8 huyện là Nacai (67 bản), Nhóm Mạ Lạt (71 bản), Hỉn Bun (66 bản), BuaLapha (82 bản), Ma HaXay (89 bản), Xay Bua Thoong (66 bản), Xe Băng Phay (50

bản), Noong Bốc (72 bản) [48, tr.42-32]. Tỉnh Khămmuộn cũng như các tỉnh miền núi khác của Lào, đồi núi và trung du chiếm 2/3 diện tích đất đai. Tỉnh Khămmuộn có địa hình dốc, với các núi đá vôi lớn; là tỉnh nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới nên nhiệt độ trung bình cả năm từ 20 - 340C, với hai mùa rõ rệt, mùa khô kéo dài 5 đến 6 tháng, lạnh và hanh, độ ẩm thấp, đất đai khô cằn. Bên cạnh đó, mùa mưa kéo dài 4 đến 5 tháng, là điều kiện thuận lợi cho các loại cây phát triển, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, ở đây có rất nhiều loại gỗ quý hiếm như lim, lát hoa, trầm hương và các loại lâm sản quý

hiếm khác. Khămmuộn có hai con sông lớn là Xêbăngphai và Nậm thởn và một số con sông nhỏ do sông con Xêbăngphai tạo ra, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, thủy điện.

Tuy điều kiện về tài nguyên thiên nhiên có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó, tỉnh Khămmuộn cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tỉnh Khămmuộn là một tỉnh có trình độ dân trí còn thấp, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông và khai thác lâm thổ sản; cơ sở hạ tầng còn rất kém, giao thông đi lại khó


khăn. Cho đến năm 2010, tỉnh Khămmuộn vẫn chưa có đường sắt, hệ thống đường bộ sau nhiều năm khai thác đã xuống cấp nên việc buôn bán trao đổi hàng hoá, giao lưu cả trong và ngoài tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn, cản trở rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh.

Nhân tố dân cư và văn hóa xã hội:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc. Việt Nam có 54 dân tộc, Lào có 49 tộc người. Các nhóm dân tộc của Lào, đặc biệt là các nhóm cư dân sống ở các vùng biên giới hai nước, có quan hệ khăng khít với một số dân tộc thiểu số của Việt Nam. Một bộ phận cư dân hai nước vùng biên giới có thể cùng một tộc người, có quan hệ huyết thống thông qua hôn nhân, do đó một số bản của Lào giáp với biên giới Việt Nam có nhiều người Lào gốc Việt. Cùng chung dãy Trường Sơn, cư dân hai nước tất yếu ít nhiều chịu sự tác động qua lại của những xáo động cư dân qua những biến động trong tiến trình lịch sử. Trước khi hình thành các khu vực biên giới và cả về sau này, Lào là địa bàn gặp gỡ, giao lưu của các tộc người, từ các vùng phía Đông, phía Tây, nhất là biến động lên xuống của cư dân các vùng Bắc - Nam. Mối bang giao có từ lâu đời giữa cư dân của hai dân tộc là một trong những cơ sở vững chắc cho quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào ngày nay.

Cư dân tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu là người Kinh, cư trú phần lớn ở đồng bằng. Nội biên thuộc tuyến biên giới tỉnh Hà Tĩnh - tỉnh Bôlykhămxay và Khăm muộn có tổng số 58.801 hộ, với 228.889 khẩu, trong đó dân tộc Kinh có 58.473 hộ với 227.383 khẩu, dân tộc Lào có 117 hộ với 556 khẩu, dân tộc Mường có 52 hộ với 212 khẩu, dân tộc Thái có 09 hộ với 25 khẩu, dân tộc Mán Thanh có 121 hộ với 609 khẩu, dân tộc Chứt có 37 hộ với 154 khẩu [94]. Đồng bào các dân tộc ít người, gồm 328 hộ với 1.506 nhân khẩu sống tập trung và xen ghép tại 7 thôn, bản thuộc 3 huyện: Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang. Trong đó có dân tộc Chứt sống tập trung tại bản Rào Tre, xã Hương Liên và Bản Giàng II, xã Hương Vĩnh thuộc huyện Hương Khê, vốn có mối quan hệ đồng tộc với cư dân Lào vùng biên giới. Cư dân Lào cư trú dọc theo biên giới giáp tỉnh Hà Tĩnh gồm nhiều tộc người, chung sống trong các bản làng. Mặc dầu có rất ít sự tương đồng nguồn gốc dân cư nhưng do cùng sinh sống lâu đời dưới

Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn CHDCND Lào từ năm 1991 đến năm 2010 - 3


mái nhà chung là dãy Trường Sơn, nên nhân dân ba tỉnh từ lâu đã sống rất hòa thuận, cùng chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cũng như trong sự nghiệp dựng xây quê hương, đất nước.

Đặc biệt, một bộ phận nhân dân các địa phương vùng biên giới ba tỉnh còn gắn bó thân thiết với nhau bởi các mối quan hệ thân tộc, thường xuyên qua lại, thăm viếng, trao đổi hàng hóa, vật dụng phục vụ cuộc sống thường nhật; chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, giao lưu văn hóa [93].

Trong tiến trình lịch sử, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận cư dân người Việt Nam di cư sang sinh sống, làm ăn và định cư trên đất Lào, từng bước hình thành nên cộng đồng Việt kiều ngày càng đông đảo ở một số địa bàn trên nước bạn. Cộng đồng khá đông đảo người Việt tại Lào đã và đang nỗ lực đóng góp sức mình góp phần tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, làm thay đổi bộ mặt của nhiều thành phố, thị trấn và là cầu nối hết sức có ý nghĩa trong giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các bộ tộc Lào. Có thể khẳng định rằng, những nhân tố về dân cư nêu trên đã có những tác động lớn, góp phần tăng cường tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân dân các bộ tộ Lào anh em.

Về văn hóa, hai dân tộc Việt Nam và Lào có nhiều nét tương đồng. Việt Nam và Lào đều nằm trong vùng ảnh hưởng mạnh của nền văn hoá của hai quốc gia là Ấn Độ và Trung Quốc. Đặc biệt, Phật giáo có ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào. Trong tiến trình phát triển, mỗi quốc gia đều có truyền thống lịch sử lâu đời và đã tạo nên những thành tựu và cả những nét khác biệt trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội với những phong tục, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc. Tuy nhiên, do gần gũi về địa lý cho nên từ xa xưa giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào đã có sự bang giao, nhất là các dân tộc ở dọc biên giới của hai nước. Xuất phát từ những tương đồng, ít nhiều chịu sự chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau về phương thức sinh hoạt vật chất, cư dân ba tỉnh cùng chung biên giới ngày càng xích lại gần nhau hơn và tất yếu chịu sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong sinh hoạt văn hóa tinh thần. Ngày nay, nhiều phong tục tập quán, nhất là trong ma chay, cưới xin, thờ cúng tổ tiên, thần linh... vốn là những nét đẹp văn hóa truyền


thống lâu đời của hai dân tộc Việt Nam - Lào, đã và đang được nhân dân ba tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn lưu truyền từ đời này sang đời khác. Do điều kiện đặc thù của địa bàn cư trú cùng với mối quan hệ mật thiết giữa các nhóm dân cư sống dọc biên giới cũng như các điều kiện cụ thể của lịch sử để lại, xuất phát từ nhu cầu giao tiếp giữa những cá nhân với cộng đồng vốn đã gần gũi về địa lý, phong tục tập quán, nên trên thực tế đường biên giới quốc gia không hề chia cắt tình cảm giữa các cộng đồng cư dân trên tuyến đường biên vốn có từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Văn hóa là nhịp cầu nối để các quốc gia dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Chính sức mạnh của yếu tố văn hóa truyền thống đã góp phần quan trọng xây đắp nên tình cảm đặc biệt giữa nhân dân ba tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay, Khămmuộn trong suốt chiều dài lịch sử từ ngàn xưa và ngày càng được phát huy, làm phong phú, đa dạng thêm trong thời kỳ đổi mới.

Đặc điểm về kinh tế:

Trong quá trình phát triển, do điều kiện gần gũi về địa lý và nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, sinh hoạt văn hóa tinh thần, phong tục tập quán, cư dân ba tỉnh dọc biên giới từ xưa đã sớm giao lưu, trao đổi về kinh tế và có những điểm tương đồng trong sinh hoạt vật chất. Bên cạnh làm nương rẫy, săn bắt hái lượm, khai thác nguồn lợi từ rừng núi, cư dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đều sớm biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống. Ngày nay, ngoài tăng cường trao đổi, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả trong sản xuất nông - lâm nghiệp, cư dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, nhất là địa bàn giáp biên còn tăng cường buôn bán, trao đổi hàng hóa, du nhập ngành nghề mới; chia sẻ thông tin, kinh nghiệm cho nhau nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của

từng địa phương nhằm giúp nhau phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.

Từ xa xưa, cư dân Việt Nam và Lào đã có sự giao lưu kinh tế, lúc đầu chủ yếu ở vùng biên giới, về sau, do yêu cầu ngày càng cấp thiết trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước nên đã từng bước hình thành và phát triển các tuyến đường thông từ Lào sang Việt Nam và ngược lại. Theo trục


Đông - Tây, phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, có đường Quốc lộ 8A sang Lào, qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, là con đường ngắn nhất nối vùng Trung Lào và Thượng Lào ra Biển Đông. Tuyến đường này đã và đang là huyết mạch quan trọng giúp tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng, hai nước nói chung trong việc tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giao lưu trao đổi hàng hóa, phát triển du lịch, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư. Ở phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, có Quốc lộ 12 dài 55 km, nối cảng biển nước sâu Vũng Áng (Hà Tĩnh) với Thị xã Thà Khẹt (Lào), qua cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình). Đây vừa là con đường kết nối hành lang kinh tế Đông - Tây ngắn nhất, đồng thời mở ra điều kiện thuận lợi hơn để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế vùng đất đai rộng lớn phía Tây tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh vùng biên giới Việt Nam - Lào nói chung.

Đặc biệt, tỉnh Hà Tĩnh có bờ biển dài với nhiều cảng và cửa sông lớn cùng với hệ thống giao thông đường thủy rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho nước bạn Lào, nhất là tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

Chính phủ Việt Nam đã có quy hoạch định hướng xây dựng cụm cảng Vũng Áng với các cảng tổng hợp và cảng chuyên dùng, phục vụ công nghiệp cơ khí, luyện cán thép, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, hoá dầu và đặc biệt là để giúp nước bạn Lào “thông ra biển”; xuất, nhập khẩu hàng hoá, mở rộng buôn bán với các nước. Ngoài ra, ở phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh, trên địa bàn huyện Nghi Xuân có cảng Xuân Hải, đủ điều kiện tiếp nhận tàu có trọng tải 2.000 tấn, rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ Lào, theo Quốc lộ 8A đến các tỉnh của Việt Nam, sang nước thứ ba và ngược lại.

Ở phía Tây, trên tuyến biên giới 145 km thuộc địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, ngoài Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo - Nậm Phào nằm trên Quốc lộ 8A và 3 đường tiểu ngạch: Bản Giàng đi Khămmuộn, Kim Quang, Sơn Hồng đi tỉnh Bôlykhămxay, còn có nhiều đầu mối giao lưu, buôn bán được hình thành và ngày càng mở rộng phát triển dọc tuyến biên giới, vừa giúp nhân


dân ba tỉnh giáp biên phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, vừa là cầu nối ngày càng làm phong phú, sâu đậm thêm tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân dân các bộ tộc Lào anh em.

Do những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội, tạo lợi thế, tiềm năng và cả những khó khăn, thách thức cho mỗi tỉnh trong quá trình phát triển, cho nên trong quá trình xây dựng quan hệ hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nhằm hạn chế, khắc phục những khó khăn, thách thức, đồng thời phát huy được tối đa tiềm năng, thế mạnh của mỗi tỉnh.

Về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử:

Trong suốt tiến trình phát triển, tình đoàn kết và mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào nói chung và giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng được tạo nên không phải do ý muốn chủ quan của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mà do yêu cầu khách quan, bức thiết, có ý nghĩa sống còn trong cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước của nhân dân hai dân tộc và các địa phương qua các thời kỳ lịch sử.

Dưới thời kỳ phong kiến, trong quá trình đấu tranh giành và giữ nền độc lập, các triều đại phong kiến và nhân dân hai nước đã có mối quan hệ hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, như: giúp đỡ, chi viện về lực lượng, vũ khí, lương thực, tạo địa bàn đứng chân an toàn, thuận lợi cho quân và dân nước bạn trong những thời điểm khó khăn, hiểm nghèo.

Có thể khẳng nói rằng: nhận thức phải nương tựa vào nhau tồn tại bắt nguồn từ yêu cầu sống còn của hai dân tộc, hai quốc gia. Chính việc nương tựa vào nhau, cùng nhau đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mình là nội dung cơ bản của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào

- Việt Nam trong suốt thời kỳ cổ, trung đại [68, tr.18-19].

Đầu thế kỷ VIII, đời Khai Nguyên (713 - 741) nhà Đường, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn trên đất Châu Hoan, do Mai Thúc Loan (quê ở làng Mai Phụ, xã Thạch Bắc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) khởi xướng và lãnh đạo.


Khi cuộc kháng chiến lan rộng, chính quyền đô hộ bị đập tan ở nhiều nơi thì cùng lúc đó, quân Chăm Pa, Chân Lạp kéo đến tiếp ứng [23, tr.110].

Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vào đầu năm 1425, khi nghĩa quân tiến vào vùng đất Hà Tĩnh, nhân dân khắp nơi vùng dậy cùng đóng góp sức người, sức của vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong đó, nhân dân các dân tộc thiểu số và nhiều tù trưởng Ai Lao vùng này đã đem hàng ngàn quân cùng voi chiến theo Lê Lợi chống quân xâm lược.

Đặc biệt, lịch sử của hai dân tộc Việt Nam - Lào anh em đã ghi lại những trang sử vẻ vang của nhân dân vùng đất Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn cùng đoàn kết gắn bó keo sơn, kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Cùng với nhân dân cả nước, hưởng ứng Chiếu Cần Vương, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp đã nổ ra trên địa bàn Hà Tĩnh. Nhiều căn cứ và đơn vị nghĩa quân của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Cao Đạt, Hà Văn Mao, Tống Duy Tân... đã dựa vào các vùng rừng núi giáp biên giới Việt Nam - Lào để hoạt động, được nhân dân Lào và Việt Nam ở đây đùm bọc, nuôi dưỡng [23,tr.19]. Trong đó, vùng biên giới Lào là đất đứng chân của phong trào đấu tranh trong những năm cuối thế kỷ XIX của nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

Đặc biệt, từ ngày có Đảng cách mạng dẫn đường, hai dân tộc tiếp tục kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc trường kỳ chống kẻ thù xâm lược, vun đắp thêm tình hữu nghị đặc biệt hiếm có giữa hai dân tộc và nhân dân hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên Lào” [72, tr.39]; “Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với dân tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh sẽ đủ đánh tan thực dân Pháp và can thiệp Mỹ” [73, tr.402]. Tại Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương, tháng 9/1952, Người cho rằng: Việt Nam kháng chiến có thành công thì Lào, Miên mới thắng lợi và Lào Miên có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi [80, tr.323].


Ngay từ khi mới ra đời, Chính phủ Việt nam và Chính phủ Lào đã nhanh chóng ký kết Hiệp ước tương trợ Lào - Việt (16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức liên quân Lào - Việt (30/10/1945), chính thức xác lập về mặt nhà nước liên minh chiến đấu giữa hai nước, hai dân tộc. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý mới cho sự hình thành và phát triển mối quan hệ phối hợp chiến đấu giữa các địa phương của hai nước, đặc biệt là các địa phương cùng chung đường biên giới, trong đó có tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.

Từ những ngày đầu khi chính quyền cách mạng non trẻ của hai nước đang phải lo giải quyết những công việc bộn bề, thực dân Pháp đã chớp thời cơ ra sức đẩy mạnh xâm chiếm vùng biên giới phía Tây Hà Tĩnh. Ngày 7/9/1945, bộ đội Hà Tĩnh đã phối hợp với quân dân Lào và Bôlykhămxay tấn công quân Pháp tại Lạc Xao, Căm Cợt, Na Pê, giải phóng nhiều thôn xóm khác dọc Quốc lộ 8A [24, tr.15,17]. Tại đây, quân và dân Hà Tĩnh đã giúp Lào vừa xây dựng lực lượng, bảo vệ chính quyền, vừa phối hợp tấn công quân Pháp tại nhiều vị trí xung yếu mà chúng đóng quân [38], [25, tr.40].

Ngày11/11/1945, Uỷ ban nhân dân Cách mạng huyện Hương Sơn và đại diện lực lượng vũ trang kháng chiến Lào đã ký một Hiệp ước thân thiện. Hai bên quyết tâm giúp đỡ nhau cùng chung sức phòng thủ biên giới, góp phần củng cố tình hữu nghị vốn có lâu đời giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân dân Lào nói chung và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng [24, tr.17, 45].

Trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tỉnh Hà Tĩnh được giao nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế phục vụ cho các chiến trường. Trong đó, ngoài trực tiếp phục vụ chiến trường Bình Trị Thiên, tỉnh Hà Tĩnh đã trực tiếp tiếp tế chi viện cho chiến trường Trung Lào [25, tr.45]. Từ năm 1952 - 1953, ngoài tham gia phục vụ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục chi viện nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men cho chiến trường Lào, trong đó có 16 đại đội trực tiếp phục vụ trên Quốc lộ 8A sang Trung Lào. Toàn tỉnh đã huy động 30.632 dân công đi chiến dịch. Ngoài lực lượng dân công, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động 1.500 thanh niên trực tiếp tham gia phục vụ chiến đấu tại mặt trận [115].

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 04/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí