Hệ Thống Từ Ngữ Gắn Với Cuộc Sống Và Con Người Miền Núi.


dòng suối trong vắt, dạt dào”. [17. Tr 224] Hay khi On bị bố con Đoác vu cho ăn cắp bò của xí nghiệp rồi bắt vào tù, lòng căm uất đã khiến tâm trí On nảy sinh ra ý nghĩ sẽ giết chết Đoác - giết một kẻ độc ác. Đầu óc On cứ quay cuồng với ý nghĩ giết hay không giết hắn thì thiên nhiên quanh anh cũng như hoà cũng tâm trạng ấy của anh: “Suốt buổi chiều On suy nghĩ căng thẳng – căng thẳng hơn tất cả những bài toán khó, những tính toán phức tạp mà On đã nghĩ: giết Đoác, giết một kẻ độc ác…giết người! On những nghĩ mà rùng mình…Sương lam chiều đã buông đầy đồng: mờ mờ, nhờ nhờ như nước vo gạo loãng. Cả bầu trời đất Ba Mái chiều nay im lặng, ông trời đang nín thở”.[ 17. Tr 291]. Và đây là thiên nhiên khi nàng Ai Hoa, người con gái đẹp nhất của mường Hai Nước chết trên đỉnh núi Ngai Vua sau khi không được Tú chấp nhận tình yêu: “Ngày hôm đó giở trời. Mây đen từng mảng, từng tảng sà xuống ngọn núi cao nhất mường Hai Nước. Những tảng mây đen như những con đại bàng khổng lồ hay những con rồng đen từ thủơ hồng hoang sà xuống cắp trái núi Ngai Vua của mường tha về trời. Bố mẹ nuôi vác ván lên đỉnh núi cao hộ Tú. Càng lên cao những con thác của dòng sông càng vọng đuổi theo ba người, nghe như tiếng nức nở khóc than. Gió rừng ào ào. Gió rú rít trong ngàn cây, nghe như hàng nghìn tiếng khóc than của ma quỷ. Cả ba người nghĩ cùng một ý nghĩ không ai nói với ai: trời đất đang khóc than cho một người con gái đẹp nhất của quê hương sắp lìa còi đời bởi một tình yêu không được thoả mãn”. [ 18. Tr 255]. Và đây là thiên nhiên trong Lòng dạ đàn bà vào cái đêm Nghít kể cho Thu – cũng là nàng Thu Lả, vợ của hắn, nghe tội phản bội của hắn cùng đứa em nuôi khiến cho Thu Lả phải gửi mình cho hà bá, thuồng luồng: “Từng đợt, từng đợt gió mùa đông bắc, liên tiếp thổi mạnh hơn. Gió gào rú khắp mọi vách đá. từng cơn gió quằn quại, oằn mình trên mái lá. Trong gió hú, lạnh buốt đến tận ruột đá nhưng những tiếng gọi bạn tình đều đều da diết của những đôi chim khảm khắc vẫn vang lên như từ thuở nghìn năm dội lại.”[20. Tr 199] Rò ràng tiếng chim khảm khắc – loài chim tượng trưng cho tình yêu đôi lứa của người Tày, vang lên trong tiếng gió dữ dội còn là dấu hiệu dự báo cho mối tình của Thu Lả và Thang Nghít: mối tình của họ dẫu gặp phải sóng gió nhưng chắc chắn sẽ không thể chia lìa. Đúng như cái kết có hậu của tác phẩm khi hai người trở về đoàn tụ cùng gia đình của mình.


Thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng còn được nhà văn sử dụng như là một yếu tố khắc hoạ tính cách, làm nổi bật ý chí, nghị lực của nhân vật. Trường hợp này chúng ta thấy rất rò khi nhà văn sử dụng hình ảnh thiên nhiên mang đặc điểm hoang sơ, dữ dội như là những thách thức khắc nghiệt để thử thách con người. Hình ảnh con đường hoang sơ, hiểm trở ẩn chứa đầy sự hiểm nguy lên đỉnh núi Khau Moóc mà kĩ sư Quản phải vượt qua trong Gã ngược đời Ở thác Trán Hổ, nước từ trên cao đổ xuống làm thánh mấy bậc…trên trán thác là hai bên bờ vách đứng đá dựng…Mỗi hòn đá trơn như bôi mỡ, bôi dầu… Dưới chân thác Trán Hổ là những con rùa lớn bằng cái nong nằm chờ con hươu, con nai hay con người ngã thác là chúng thi nhau xâu xé. Những con rùa đó giống hình con ba ba, đầu to miệng rộng hoác rất thèm ăn thịt người”[19. Tr 87] ; với những đoạn đi qua bài lá han đẹp đầy quyến rũ nhưng lại chính là những kẻ giết người. Mỗi khi có người đi qua: “cả bãi lá han gần như thức đậy cất tiếng lào phào đòi ăn thịt người”. Những lông tơ của lá han có sức mạnh ghê gớm, nó chui qua những lần vải ăn vào da thịt con người, vì vậy “đã có mấy bộ xương nằm cạnh bãi lá han.”; nào là đoạn đi qua thác Voi Gầm: “Dưới chân thác là vực sâu đầy thuồng luồng có sừng vàng, có mỏ đỏ chỉ đợi mọi vật và con người rơi xuống là ăn thịt”. Không chỉ có thể mà “trên bờ thác có những con vắt ma, những con vắt ma to bằng ngón tay, nhiều như lá cây trên đầu…Vắt từng ổ, từng vộc, vắt nhảy rào rào…vết cắn của vắt có chứa độc, lắm khi mọc mụn khắp người rồi chết.”. Hay hàng loạt những khó khăn, nguy hiểm từ những loài thú dữ của vùng đất Pác Quảng hoang vu không dấu chân người mà vợ chồng Ki Nọi trong Đoạ đày phải đương đầu như: những con sói “ đông đến hàng trăm con, lũ chúng có thể tấn công cả đàn lợn lòi, cả hổ và gấu”, những con hổ có “hai răng nanh to bằng quả chuối tiêu, dài quá gang tay, trắng nhởn, nhọn hoắt” hay những con trăn “to bằng cuộn cót phơi thóc, to hơn cái cột nhà to, to hơn cả cái cột đình ở miền xuôi”... Họ đã luôn phải tìm cách vượt qua chúng để bảo vệ chính mạng sống của mình cũng như để bảo vệ đàn gia súc. Đặc biệt, vùng đất Pác Quảng còn có loài tó hồng kì lạ: “to bằng con chim ri, dài gần bằng ngón tay trỏ…chúng giống hệt như con ong bò vẽ, lại khát máu”. Chúng có hai gọng răng như hai gọng kìm sắt,


mập mạp. Loài tó hồng không chỉ khát máu mà còn biết trả thù, chính đứa con gái nhỏ của Bội Hoan và Ki Nọi đã bị loài tó hồng ăn thịt đến nỗi “con bé chỉ còn lại bộ xương…hình như đang rỏ máu”. Việc để cho nhân vật phải vượt qua những thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt ấy chính là một cách để nhà văn khắc hoạ tính cách nhân vật và qua đó ca ngợi ý chí, nghị lực của con người.

Thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng không chỉ thể hiện tâm trạng, khắc hoạ tính cách nhân vật mà còn thể hiện sự gắn bó mật thiết với nhân vật đến mức trở thành một yếu tố dự báo trước cho số phận, cho những bước ngoặt ghê gớm trong cuộc đời của nhân vật. Hoa trong Người trong ống là một cô y tá xinh đẹp của bệnh viện Lục Khê. Hánh, chồng của Hoa đi chiến đấu chống Mĩ mấy năm nay không có tin tức gì. Ở nhà, Hoa đã không tránh được sự cám dỗ của Ba, một kẻ xấu xa, háo sắc để rồi cô trở thành người tình của hắn. Và khi nhận được thư của chồng nhắn rằng anh sắp về, Hoa đã nhanh chóng quyết định sẽ có con với Ba bởi chồng cô không đẹp trai bằng hắn. Hoa muốn có những đứa con “xinh đẹp, thông minh như Ba”. Ngay vào cái ngày cô có quyết định sai lầm ấy, thiên nhiên vùng đất Lục Khê như đã nhìn thấy trước số phận bất hạnh của cô trong tương lai: “Hôm nay cuối thu bầu trời Lục Khê u ám. Một bầu trời mây xám xịt…Trên bầu trời u ám từng đàn chim ngói bay thấp bay cao…Những đàn chim ngói đang bay lượn có phần nhởn nhơ. Bỗng một con cắt xám màu cứt trâu - loại to, bay nhanh – lao vào bắt một con chim nào đó trong đàn chim. Đàn chim ngói trăm con bỗng vỡ ra và lao nhanh, như nghìn mảnh sa thạch đang rớt trong vũ trụ. Con cắt xám vồ quắp một con. Lông con chim xấu số rơi lả tả giữa trời. Con ngói rớt ngay xuống trước mặt Hoa giãy đành đạch, đẫm máu!”[18. Tr 168]. Sau đó, Hoa không chỉ đánh mất hạnh phúc gia đình, gián tiếp gây nên bất hạnh cho người chồng của mình, bị tên Ba bỏ rơi mà cô cũng không thể có con với Ba như cô đã dự kiến. Và dẫu cho tác giả không đề cập, thế nhưng bất cứ ai cũng có thể đoán rằng phần đời còn lại của mình chắc chắn cô cũng không thể có được hạnh phúc. Trong Đi tìm giàu sang, thiên nhiên cũng được Vi Hồng sử dụng khi dự báo trước số phận của nàng Nhình Hỉ vào cái ngày cô để cho tên Ma Chàn xấu xa chiếm đoạt trong rừng: “Mái đại ngàn che lấp ánh sáng mặt


trời. Rừng trở nên âm u. Ánh sáng mờ mờ ảo ảo. Nàng thấy hàng vạn cột đá mọc lên tua tủa như mẹ đất vừa cho mọc chông gai. Nàng rùng mình, tưởng như chông gai của mẹ đất đâm nhừ nát số phận nàng.” [ 26. Tr 54] Và quả thật số phận của Nhình Hỉ đã thực sự “nát nhừ” từ ngày đó: nàng không thể lấy được Eng Háo mà phải trở thành vợ của Ma Chàn, khi nàng có thai bảy tháng thằng chồng bất nhân vô đạo đức của nàng đã cố tình dẫn nàng vào rừng hủi khiến nàng bị ngất và sảy thai. Không chỉ có thế, Ma Chàn còn nhẫn tâm không cho người khác mang thức ăn cho nàng để nàng phải chết đói bởi hắn không muốn bị mang tiếng có một con vợ hủi. Nếu như Nhình Hỉ không được những con người tốt bụng như bà cháu Nọi Lai, Eng Háo cứu giúp, chắc chắn nàng sẽ phải chết khô trong cái chòi ở khu rừng hủi ấy. Số phận bất hạnh của nàng Thu Khoan (Dòng sông nước mắt) trước sự thay đổi, thậm chí là tha hoá của người chồng dường như cũng được nhà văn báo trước cho độc giả ngay buổi chiều muộn khi nàng Thu Khoan cho đàn ca nặm ăn vào cái ngày người chồng của nàng bị chết đột ngột vì “ngã ngựa” khi ở bên một cô gái làng chơi: “Những con ca nặm say mồi, đủ thuốc chúng lập tức giương những cái cánh dài bằng sải tay người lên phơi. Trên ba tầng mui của chiếc thuyền độc mộc bỗng như dựng một loạt cánh buồm đen. Con thuyền cũng hình như đi vào đêm đen. Bởi trời tối đã tràn ngập khắp mặt sông.” [21. Tr 193]

Thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng nhiều khi còn là một yếu tố làm nổi bật lên nhân cách của nhân vật, thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác giả. Kĩ sư Bèn trong Thung lũng đá rơi là một kĩ sư có tài, đặc biệt anh có rất nhiều sáng kiến có giá trị để cải tiến nâng cao sức lao động. Thế nhưng ở khu mỏ Đá Rơi, Bèn chưa thể thực sự khẳng định, phát huy hết khả năng của mình bởi định kiến của ông giám đốc Lót về thành phần gia đình xuất thân của anh. Trong một buổi nói chuyện tại hội trường do Lót tổ chức cho tất cả mọi công nhân trong khu mỏ, Lót đã gọi Bèn lên và yêu cầu anh nhắc lại những gì vị cách mạng lão thành vừa nói vì biết anh không hề chú ý nghe mà chỉ chăm chú đọc quyển sách kĩ thuật giấu trong lòng bàn tay. Mục đích của Lót là muốn hạ uy tín của anh, và ông ta không thể ngờ được rằng với trí nhớ tuyệt vời, với lối nói diễn cảm và kiến thức phong phú Bèn đã biến

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.


câu chuyện tẻ nhạt của vị khách mời thành một bài nói chuyện hấp dẫn và thực sự thu hút được tất cả mọi người. Khi buổi nói chuyện kết thúc, Bèn “bị” công nhân đứng chặn lại nói chuyện trong khoảng ánh sáng chói loà hiếm hoi của buổi chiều, điều kì lạ là khoảng sáng ấy chỉ chiếu rọi đúng khoảng không gian mà Bèn đang đứng. Khoảng sáng ấy đã thay tác giả bộc lộ tư tưởng của mình. Đó là ánh sáng của tri thức, của trí tuệ trong anh kĩ sư Bèn. Đó chính là cái mà nhà văn hết sức đề cao, quý trọng: “Mới nửa buổi chiều nhưng mặt trời khuất những ngọn núi đá chọc vào trời đã lâu, rọi cái ánh nắng đang độ hẹp của nó qua một cái nách núi đá, chiếu thẳng vào cái hội trường mà ông giám đốc và các vị khách quý vừa ra về. Hội trường bỗng sáng loà lên một khoảng. Kĩ sư Bèn bị công nhân chặn lại ở giữa khoảng sáng đó. Anh muốn về nhà ngay cũng chẳng được nào”.[16. Tr 88] Hay như trong Người trong ống, để làm nổi bật nhân cách, đạo đức của bác sĩ Huy trong lần anh được bệnh nhân đến tạ ơn - đó là người được anh cứu sống trong cơn bệnh nguy cấp vì sự chẩn đoán nhầm của ông hiệu trưởng, Vi Hồng cũng để thiên nhiên nói thay những điều mà ông muốn viết: “Cả bầu trời của thành phố T. xám ngắt một màu chì, nhưng trước mặt ông ở phía mặt trời mọc có một khoảng trời xanh ngắt, xanh đến lạ lùng. Ông bà nhìn khoảng trời xanh ngắt ấy mà đạp xe về nhà, lòng dần dần thanh thản”. [18. Tr 55]Cái khoảng trời xanh ngắt kia cũng là sự toả sáng của tài năng, nhân cách của Huy trong ngành y, nhất là khi đặt anh bên cạnh những bác sĩ bất tài, xấu xa như ông Hoàng và Ba.

Đặc điểm tiểu thuyết Vi Hồng - 15

Đặc biệt, thiên nhiên trong Tháng năm biết nói còn trở thành một biểu tượng nghệ thuật đặc sắc gắn liền với số phận nhân vật chính - Hoàng. Đó chính là hình ảnh dòng thác Chín Thoong của quê hương nhân vật Hoàng. Trong tác phẩm, dòng thác Chín Thoong xuất hiện đi xuất hiện lại với tần số cao: 46 lần. Trong những lần xuất hiện ấy, dòng thác Chín Thoong có khi xuất hiện như là một đối tượng khách quan: lúc thì mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình, lúc lại mang vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ. Có khi dòng thác Chín Thoong lại trở thành đối tượng để so sánh với các biểu hiện, trạng thái khác nhau của con người như: “Hoàng nghĩ bộn bề, căng thẳng những ý nghĩ trẻ con chồng chéo lên nhau, réo sôi như con thác Chín thoong…những ý nghĩ


đè lên nhau như sóng con thác Chín Thoong”; như: “những tiếng cười như thác Chín Thoong réo”, “cười dài như thác Chín Thoong”; hay như: “vầng trán cao rộng của ông càng trở lên phẳng lì như cái vực Chín Thoong vào những ngày cuối đông”. Đặc biệt, dòng thác Chín Thoong còn là một biểu tượng nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa. Cuộc đời của nhân vật Hoàng bị ám ảnh bởi dòng thác Chín Thoong quê hương. Con thác ấy đã sống với biết bao kiếp người của bản Chín Thoong. Và mọi người dường như quen dần với những tiếng ầm ào réo sôi của nó. Thế nhưng riêng đối với Hoàng, cậu lại không thể nào quen được với âm thanh ấy. Hình ảnh con thác cùng tiếng gầm gào bất tận của nó cứ ám ảnh cậu, theo cậu ngay cả trong giấc ngủ: “Hoàng ngủ trong tiếng gầm của thác. Sao mọi người quen mới thác, mà Hoàng thì không sao đánh mất nó được. Không những Hoàng không loại trừ nó được trong lỗ tai của mình mà còn mang nó theo suốt mọi nẻo đường. Hoàng đi thật xa nhưng trong lỗ tai của Hoàng vẫn ầm ào tiếng thác Chín Thoong”.[ 23. Tr 7] Dòng thác Chín Thoong cứ dội vào số phận của Hoàng, ám ảnh Hoàng khiến anh không sao thoát ra được. Ngay những người dân trong bản cũng cảm thấy sự bất hạnh được báo trước của đời Hoàng: “Hoàng phàn nàn với mọi người về cái thác đó trong lỗ tai của mình. Ai cũng nói với Hoàng một ý: nếu thế thì đời mày sẽ khổ thôi…Khổ ra làm sao? Hoàng thường hỏi mọi người. Nhiều người thì nói xa nói bóng rằng: lúc nào cũng ù tai là khổ. Nhưng cũng có người nói thẳng ra: cái thác nó dội vào số phận của đời mày…còn không khổ à?” [ 23. Tr 7-8] Dòng thác Chín Thoong dường như là biểu tượng cho những hủ tục, cho lễ giáo phong kiến ngàn đời của quê hương đối với số phận Hoàng, khiến cho Hoàng phải trải qua những tháng ngày đau khổ vì cuộc hôn nhân ép buộc do mẹ anh định đoạt. Bởi vậy cho nên cứ mỗi lần về nhà, mỗi lần giáp mặt với mụ Tẹo - vợ của Hoàng, trong lòng Hoàng lại cảm thấy ngột ngạt bức bối “như bị ù tai, tắc thở”. Khi đó Hoàng lại nghe thấy “ tiếng thác ầm ầm nện lên số phận của Hoàng, dội xuống ngực Hoàng”. Cũng bởi dòng thác Chín Thoong là biểu trưng cho những hủ tục, cho lễ giáo phong kiến ngàn đời, cho nên khi Băng - một cô gái xinh đẹp, trốn nhà ra đi để chống lại sự ép hôn của cha mẹ, gặp lại Hoàng, anh đã không đã không kìm được mà thốt lên:


“- Ôi dòng thác Chín Thoong đang dội lên hai số phận.

- Em cũng vừa nhìn thấy con thác quê mình. Mặc dầu em ở xa nó đã gần mười năm. Em khát quá.

- Khát…Anh cũng khát”. [23 .Tr 218 ]

Cái khát của họ là cái khát khao trong tâm hồn, khát khao một sự đổi thay để xoá bỏ những hủ tục, những lễ giáo phong kiến đã gây lên bất hạnh cho cuộc đời họ cũng như cuộc đời của biết bao nhiêu người con trai, con gái khác của bản mường.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng đã thực sự trở thành một đối tượng nghệ thuật có giá trị cao, góp phần đắc lực giúp nhà văn khắc hoạ nhân vật và làm nên sức hấp dẫn cho từng tác phẩm.

3.3 Nghệ thuật ngôn từ

Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. “Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học” (Gorki). Bằng ngôn từ nhà văn dẫn dắt người đọc vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Ngôn từ là một phương diện quan trọng làm nên sức sống của tác phẩm và cũng là yếu tố để khu biệt, nhận diện phong cách giữa nhà văn này với nhà văn khác.

Vi Hồng là một nhà văn dân tộc thiểu số lại là người rất có ý thức trong việc phát huy cốt cách tâm hồn dân tộc Tày. Bởi vậy dẫu lấy tiếng phổ thông làm phương tiện sáng tác, song đọc tiểu thuyết của Vi Hồng ta vẫn thấy hiện lên mồn một trong từng trang viết là một cốt cách, một tâm hồn, một bản sắc dân tộc Tày không thể trộn lẫn vào đâu được.

3.3.1 Hệ thống từ ngữ gắn với cuộc sống và con người miền núi.

Bước chân vào thế giới nghệ thuật của Vi Hồng là người đọc được cảm nhận được cái khí vị miền núi quấn quyện, nồng đượm, là được sống trong môi trường đạm chất miền núi bởi quanh ta là cả một thế giới sinh động những tên đất tên người, những sự vật sự việc, những sinh hoạt rất đặc trưng của người miền núi. Hàng loạt tên gọi của những miền đất lạ xa xôi của vùng đất Cao Bằng được tác giả goi tên: mường Nặm Tốc Rù (nước Hang Rơi), mường Nặm Đút ( Nước Hút), thị trấn Lục


Khê, cánh Lục Phủ, đèo Kéo Sưa, mường Khoang Đông, mường Hai Nước, mường Soong Nặm, núi Ngai Vua, thác Thuồng Luồng, thác Chín Thoong, thác Ngựa Lồng, thác Ngựa Hí, vùng đất Đin Phiêng, Pắc Nặm, hang Cuống Hoa, thung lũng Đá Rơi…Gắn liền với tên tuổi của những địa danh ấy là những khung cảnh thiên nhiên khi thì trữ tình thơ mộng, khi thì hoang sơ dữ dội. Đây cũng là nơi còn giữ được rất nhiều thảo dược quý và những loài cây của riêng núi rừng Việt Bắc: cây mác bát, quả mác cấu, hoa boóc phón, hoa bjoóc loỏng, cỏ nhả nhùng, cỏ ỏi gảng, cây rướng, cây án mật khôn, cây nét tử, cây khẩu san, cây chiêu pioóng( cây ngưu vực)…

Cùng song hành với thiên ấy là hình ảnh của biết bao con người, những chủ nhân của núi rừng, có người trẻ, người già, có người tốt kẻ xấu, có người khôn ngoan cũng có lắm kẻ dại khờ…Họ lưu lại dấu ấn trong ta với những tên gọi vừa quen vừa lạ: Châu Đoàn Pàng, Cặm Cang, Mi Tráng, Thu Lạ, Xinh Xông, Tu Be, Khăm Tha, Ai Hoa, Xẩu Xảy, Ma Chàn, Eng Háo, Nọi Lai, Tạp Tạng, già Xanh, Già Viền, tảo Mu…

Để tác phẩm của mình đến được với bạn đọc cả nước, trong nhiều trang tiểu thuyết, Vi Hồng còn sử dụng một số tiếng Tày đi kèm với những yếu tố thuyết minh như là một sợi dây liên kết giữa ngôn ngữ miền ngược và miền xuôi: chim bjoóc ( chim hoa), toong mản (lá mản: to, tròn, nhựa trắng như sữa, mọc ở khe núi trong rừng sâu, là thức ăn cho ngựa), noọngslao( em gái - dùng gọi một cô gái trẻ), kin thân ( ăn thuốc phiện), slống phí cáy (tống tiễn ma gà), pây quây (đi xa), chò mjẫu (dụ dỗ)…

Trong các tác phẩm, Vi Hồng còn sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, câu nói và hình ảnh dân gian nhiều ý nghĩa của người dân tộc thiểu số. Nếu người Kinh mắng con: “cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư” thì mẹ Hoàng lại mắng bằng câu nói của người Tày xưa: “con chó không nghe lời chủ làm mồi cho hổ, con không nghe lời cha mẹ con vứt đi”, hoặc nếu người Kinh có câu: nói gần nói xa chẳng qua nói thật thì Vi Hồng lại sử dụng một câu tục ngữ Tày có nghĩa tương đương: “ Nói gần nói xa chẳng bằng nói ngay nói thẳng cho đỡ rườm rà dây cuốn dây leo”. Hay là hàng loạt các câu tục ngữ: mười ống không được một

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/08/2022