Đặc Điểm Tầng Sinh. Bể Cửu Long Tồn Tại 2 Tầng Đá Mẹ: Trầm Tích Tuổi Oligoxen Và Mioxen Sớm [16, 19].


Hệ tầng Biển Đông chủ yếu là cát hạt trung-mịn với ít lớp mỏng bùn, sét màu xám nhạt chứa phong phú hóa đá biển và glauconit thuộc môi trường trầm tích biển nông, ven bờ, một số nơi có gặp đá carbonat. Chúng phân bố và trải đều khắp toàn bể, với bề dày khá ổn định trong khoảng 400 – 700m. Trong mặt cắt của hệ tầng gặp khá phổ biến các hoá đá foraminifera: Pseudorotalia, Globorotalia, Dạng rêu (Bryozoar), Molusca, san hô, rong tảo và bào tử phấn: Dacrydium, Polocarpus imbricatus...

Tóm lại: địa tầng khu vực cấu tạo Hải Sư Đen bao gồm các đá granitoid tuổi Mesozoi muộn tạo nên móng trước Kainozoi và các đá trầm tích Kainozoi bao gồm các tập địa chấn E, D, C, BI.5.2, BI.5.1, BII, BIII & A. Nhìn chung bề dày của các thành tạo trầm tích tuổi cuối Mioxen sớm-Đệ Tứ khá ổn định thay đổi trong khoảng từ 1800- 2100m. Bề dày của trầm tích Eoxen – Mioxen sớm thay đổi rất rõ từ 1100m ở trung tâm kiến trúc Hải Sư Đen đến trên 6000m ở trũng liền kề.

1.3.5. Hệ thống dầu khí.

1.3.5.1. Đặc điểm tầng sinh. Bể Cửu Long tồn tại 2 tầng đá mẹ: trầm tích tuổi Oligoxen và Mioxen sớm [16, 19].

Đá mẹ tuổi Oligoxen:

- Độ giàu VCHC từ trung bình đến rất tốt, tiềm năng sinh cao, tập trung vùng lân cận cấu tạo mỏ Bạch Hổ-Rồng.

- Trũng trung tâm, độ giàu VCHC đặc biệt cao ở độ sâu trên 3100m, giá trị tiềm năng sinh HC đạt từ tốt đến rất tốt với sản phẩm là dầu chiếm chủ yếu.

- Chất lượng đá mẹ tốt hơn tại tập D, E so với tập C.

- Đá mẹ Oligoxen khu vực bể Cửu Long thể hiện tính trội VCHC đầm hồ, cho tiềm năng sinh dầu cao (Bảng 1.1, Hình 1.16).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Đá mẹ tuổi Mioxen sớm: Nghèo VCHC, tiềm năng sinh kém và chưa đạt độ trưởng thành chưa đủ điều kiện tham gia vào quá trình sinh dầu, khí ở bể Cửu Long (Hình 1.18).


Hình 1 16 Biểu đồ tiềm năng sinh dầu và phân loại vật chất hữu cơ trầm 1


Hình 1.16. Biểu đồ tiềm năng sinh dầu và phân loại vật chất hữu cơ trầm tích Oligoxen [19]

Hình 1 17 Biểu đồ tiềm năng sinh dầu và phân loại VCHC trầm tích Mioxen sớm 2

Hình 1.17. Biểu đồ tiềm năng sinh dầu và phân loại VCHC trầm tích Mioxen sớm [19]


Bảng 1.1: Độ sâu các ngưỡng hiện tại của đá mẹ Oligoxen bể Cửu Long [19]


Hình 1 18 Đồ thị thể hiện độ trưởng thành của vật chất hữu cơ tại 3


Hình 1 18 Đồ thị thể hiện độ trưởng thành của vật chất hữu cơ tại 4


Hình 1 18 Đồ thị thể hiện độ trưởng thành của vật chất hữu cơ tại 5

Hình 1.18. Đồ thị thể hiện độ trưởng thành của vật chất hữu cơ tại thời điểm hiện tại [19]


1.3.5.2. Đặc điểm đá chứa. Đá chứa Bể Cửu Long bao gồm: cát kết tuổi Mioxen, Oligoxen và đá móng granitoid nứt nẻ trước Đệ Tam [14, 16, 19].

Đá chứa Mioxen:

- Đá chứa tập BII: các tập cát kết có chiều dày khá lớn, hạt từ mịn đến thô, độ chọn lọc từ kém đến khá. Môi trường ven biển, biển, nước lợ. Đá chứa có chất lượng từ tốt tới rất tốt với độ rỗng, thấm cao, có thể đạt > 30% và tương ứng hàng trăm mD.

- Đá chứa tập BI: là tầng chứa quan trọng, có mặt ở tất cả các giếng khoan trong bể Cửu Long. Cát kết có độ hạt từ trung bình đến tốt. Độ chọn lọc từ kém tới rất tốt. Độ rỗng và độ thấm vẫn được bảo tồn, độ rỗng giữa hạt biến đổi từ 15% đến hơn 20%. (Hình 1.19)

Hình 1.19. Đồ thị thể hiện phân loại cát kết và mối quan hệ giữa độ rỗng và độ thấm, tập BI [19]

Đá chứa Oligoxen:

Tập C (Oligoxen muộn - Hệ tầng Trà Tân trên). Cát kết tập C hạt từ mịn tới thô, có nơi rất thô hoặc có cuội sỏi, hạt từ góc cạnh đến tròn cạnh. Độ chọn lọc từ kém tới rất tốt. Độ thấm kém hơn so với tập BI nhưng cũng có chỗ lên tới 1000mD do sự liên thông tốt. Khu vực Hải Sư Đen và lân cận, trầm tích tập C khá phong phú cát kết sông ngòi-phù sa. Tỷ số N/G của tập C thường khá cao, khoảng 60-65% như tại Tê Giác Trắng/Hải Sư Trắng, nhưng tại giếng 15-GD-1X tỷ số này chỉ khoảng 12%. Tại các giếng khoan trong


lô 15-2/01, bề dày tập C khoảng 250m, chất lượng chứa trung bình, độ rỗng khoảng 14- 17% (Hình 1.20).

Tập D (Oligoxen muộn – Hệ tầng Trà Tân giữa). Cát kết thuộc loại arkose và arkose lithic, các mảnh đá chủ yếu gồm đá granite, với ít đá núi lửa. Cát kết tập D đặc trưng bởi kích thước hạt từ trung bình tới mịn, tại một số nơi có hạt thô, độ liên thông khá tốt. Đá chứa có hàm lượng sét trung bình là 25%, độ rỗng thấp hơn so với cát kết tập BI và tập C (từ 10% đến 20). Nhìn chung, tập D chứa rất nhiều trầm tích sét đầm hồ nên không phải là vỉa chứa chính trong bể và khu vực nghiên cứu.

Tập E (Oligoxen dưới). Kết quả phân tích mẫu lõi cho thấy độ rỗng và độ thấm thấp. Độ rỗng tập trung chủ yếu trong khoảng 8-15%, độ thấm từ 0.01 đến 100 mD cho thấy chất lượng đá chứa tập E kém hơn nhiều so với các tập khác. Tại mỏ Hải Sư Đen, giếng khoan HSD-4X đã bắt gặp tập E với chiều dày 350m, kết quả phân tích tài liệu địa vật lý giếng khoan cho thấy các vỉa có độ rỗng từ 13-14% (hình 1.21), kết quả thử vỉa cho dòng dầu 700 thùng/ngày đêm sau khi tiến hành làm nứt vỉa bằng thủy lực.

Tập F (Oligoxen dưới). Cát kết tập F không xuất hiện nhiều trong bể Cửu Long. Khu vực Hải Sư Đen vắng mặt trầm tích của tập F. Ở những khu vực có đá chứa tập F, thành phần chủ yếu là arkose và arkose lithic với độ hạt từ trung bình tới thô hoặc rất thô, đôi chỗ có sỏi cuội, độ chọn lọc từ kém tới trung bình. Kết quả phân tích độ rỗng và độ thấm của đá trong tập F cho thấy độ rỗng thường nhỏ hơn 10%, độ thấm nhỏ hơn 10 mD. Đá chứa tập F có chất lượng từ kém đến trung bình.

Đá Móng trước Đệ Tam: Đá chứa móng granitoid nứt nẻ-hang hốc là loại đá chứa đặc biệt rất phổ biến ở bể Cửu Long, chủ yếu gồm granite và granodiorit. Một số nứt nẻ, hang hốc bị lấp đầy bởi các khoáng vật thứ sinh như calcit, thạch anh, clorit, epidot, pyrit, zeolit, đôi chỗ lấp đầy bởi là oxit sắt [13,14]. Granite bị biến đổi có chứa kaolinit chiếm từ 10 tới 30% và các khoáng vật kiềm. Đá có đặc trưng độ rỗng thấp (trung bình 1-3%)

độ thấm rất cao (hàng nghìn mD). Tại nhiều giếng khoan kết quả thử vỉa đã cho dòng tới hơn 1.000m3/ngày, thậm chí đạt 2.000m3/ngày. Đây là tầng chứa dầu khí quan trọng nhất ở bể Cửu Long (hình 1.22).


Trong khu vực Hải Sư Đen, JVPC đã khoan 2 giếng 15-VD-1X và 15-VD-2X bắt gặp đối tượng đá móng với biểu hiện dầu khí tốt, tuy nhiên, do đây là những giếng thẳng đứng nên không thể xác định được độ liên thông của các đứt gãy mở. Với những giếng khoan xiên sau đó của TLJOC (HSD-1X, HSD-5XP.…) đã khoan gần vuông góc được với những hướng đứt gãy mở đã đem lại những thành công trong việc đánh giá đá móng.

Hình 1 20 Đồ thị thể hiện phân loại cát kết và mối quan hệ giữa độ 6

Hình 1.20. Đồ thị thể hiện phân loại cát kết và mối quan hệ giữa độ rỗng và độ thấm, tập C [19]

Hình 1.21. Đồ thị thể hiện phân loại cát kết và mối quan hệ giữa độ rỗng và độ thấm, tập E [19]


Hình 1.22. Đồ thị thể hiện phân loại đá magma trong khu vực nghiên cứu [19]

1.3.5.3. Đặc điểm đá chắn

Đá chắn dầu khí ở bể Cửu Long được xem là những vỉa hoặc tập sét nằm trong khoảng địa tầng từ Mioxen tới Oligoxen, bao gồm 1 tầng chắn khu vực và 3 tầng chắn địa phương [16, 19]:

Tầng chắn khu vực – tầng sét thuộc nóc hệ tầng Bạch Hổ hay còn gọi là tập sét Rotalit khá dày, phát triển rộng khắp bể Cửu Long. Chiều dày khá ổn định ở các lô thuộc trung tâm bể và mỏng dần về rìa bể.

Tầng chắn địa phương I - tầng sét nằm trong tầng Mioxen hạ. Chiều dày tầng chắn này dao động từ 60 đến 150m, gồm nhiều vỉa sét với chiều dày 5-10m và hàm lượng sét trung bình khoảng 60%.

Tầng chắn địa phương II - tầng sét thuộc hệ tầng Trà Tân (tập D và C) bao gồm các vỉa sét riêng lẻ, phủ kín toàn bộ diện tích và đặc biệt là phần đỉnh móng với tổng chiều dày các vỉa sét đạt tới hàng trăm mét.

Tầng chắn địa phương III - tầng sét thuộc hệ tầng Trà Cú. Đây là tầng chắn mang tính cục bộ, có diện phân bố hẹp, bao quanh các khối nhô móng cổ, rất hiếm khi phủ kín cả phần đỉnh của khối nâng móng. Sét phân lớp dày, có khả năng chắn khá tốt.

1.3.5.4. Đặc điểm bẫy chứa. Bẫy chứa dầu khí ở bể Cửu Long bao gồm: bẫy cấu trúc, bẫy phi cấu tạo và bẫy hỗn hợp [16, 19]:


Bẫy cấu trúc: gặp ở hầu hết các mỏ trong bể Cửu Long được chia làm 2 loại:

Bẫy nếp lồi: hoạt động kiến tạo đã uốn cong các lớp đất đá nằm ngang ban đầu tạo nên loại bẫy này.

Bẫy bán đứt gãy: bẫy loại này được hình thành do nếp lồi bị đứt gãy.

Bẫy phi cấu tạo: Bẫy phi cấu tạo được chia ra do các nguyên nhân thạch học (mất độ thấm trong đá chứa), trầm tích (vát nhọn, thấu kính) hoặc cổ địa lý (bào mòn, lòng sông cổ, bất chỉnh hợp địa tầng) như đã gặp tại các mỏ Cá Ngừ Vàng, Kình Ngư Trắng...

Bẫy hỗn hợp: Bẫy được hình thành do sự kết hợp của bẫy cấu trúc và bẫy địa tầng trong bể Cửu Long, dạng bẫy này gặp chủ yếu trong trầm tích Oligoxen.

1.3.5.5. Thời gian dịch chuyển dầu khí

Tại đáy tập E (Oligoxen dưới), đá mẹ chủ yếu đang trong pha sinh dầu & khí ẩm- condensat ngoại trừ phần nhỏ thuộc trũng Đông Bắc và trũng Tây Bạch Hổ (độ sâu vượt 5800m). Trong khi đó tại nóc tập D, C (Oligoxen trên) đá mẹ đang trong pha sinh dầu [19].

Dầu khí di cư mạnh theo phương thẳng đứng qua các đứt gãy lớn tới tầng chứa phía trên hoặc dịch chuyển dọc tầng theo vỉa cát xen kẹp trong chính tầng đá mẹ hoặc theo các tập tiếp xúc trực tiếp với tầng sinh.

Bẫy được hình thành chủ yếu trong giai đoạn tạo rift và đầu giai đoạn sau rift (Mioxen sớm), sớm hơn với giai đoạn sinh mạnh và di cư chính của dầu, khí.

Hình 1 23 Mô hình tổng quát hệ thống dầu khí bể Cửu Long 19 7

Hình 1.23. Mô hình tổng quát hệ thống dầu khí bể Cửu Long [19]

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí