tỷ lệ TEMC. Điển hình tại Ghana, mặc dù nỗ lực phối hợp nhằm giảm sử dụng các trại TEMC, nhưng số lượng TEMC được ghi nhận sống tại các trại TEMC đã tăng từ 3.388 trẻ trong năm 2006 lên 4.432 vào năm 2012 [179].
Từ những kết quả nghiên cứu cũng như những thống kê bằng con số cụ thể, chúng ta nhận thấy đa số các nghiên cứu đã đi sâu phân tích nguyên nhân dẫn tới tình trạng TEMC gia tăng và có mâu thuẫn với chiến lược của Chính phủ một số nước trong hoạt động giảm thiểu tình trạng TEMC. Chính những phát hiện này của các nghiên cứu sẽ làm kim chỉ nam cho tác giả có được cái nhìn nhận mới hơn và có hướng phân tích, nghiên cứu tốt hơn.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về hoạt động, phương pháp và tiến trình công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi
Các hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi:
Trong quá trình trợ giúp các nhóm đối tượng gặp khó khăn nói chung và TEMC nói riêng, có khá nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ cho các nhóm đối tượng gặp khó khăn, nhất là TEMC. Các hoạt động như: giáo dục kỹ năng sống, can thiệp, phục hồi…
Một số nghiên cứu chỉ ra các hoạt động trong CTXHN đối với TEMC như: chăm sóc sức khỏe, y tế; dinh dưỡng; bảo vệ sự an toàn; hoạt động về nhà ở, nơi cư trú… [165], [176].
Một số nghiên cứu khác tập trung vào các hoạt động như:
Các hoạt động can thiệp, phục hồi: Các hoạt động này được thực hiện để hỗ trợ cho các cá nhân và nhóm TEMC được nuôi dưỡng trong các nhà thờ, các trại trẻ mồ côi và các nhà mở. Tại đây, các em được NVCTXH, các Sơ và các mẹ hỗ trợ, can thiệp, và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giúp các nhóm TEMC phục hồi các chức năng của bản thân, tháo gỡ được những khó khăn và tiến tới chủ động trong học tập. Các kết quả đó được đề cập trong nghiên cứu [165], [180].
Mặc dù các nghiên cứu có đề cập tới một số hoạt động dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhưng mới chỉ mang tính chất bao quát, chưa đi sâu cụ thể vào các nhóm TEMC. Các nghiên cứu cũng chưa cụ thể hóa các hoạt động đó được thực hiện như thế nào? Kết quả ra sao?
Có thể bạn quan tâm!
- Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn các cơ sở chăm sóc trẻ em tại thành phố Hà Nội - 1
- Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn các cơ sở chăm sóc trẻ em tại thành phố Hà Nội - 2
- Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu Của Luận Án
- Những Kết Quả Của Các Công Trình Nghiên Cứu Đã Thực Hiện
- Khái Niệm Công Tác Xã Hội Nhóm Đối Với Trẻ Em Mồ Côi
- Lý Luận Về Công Tác Xã Hội Nhóm Đối Với Trẻ Em Mồ Côi
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Các nghiên cứu về phương pháp, tiến trình công tác xã hội nhóm nói chung và tiến trình công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi:
Trên thế giới, phương pháp CTXHN đã được ứng dụng từ những năm 30 của thế kỷ XX nhưng tới những năm 1940 và 1950 phương pháp CTXHN thực sự phát triển và mang tính khoa học cũng như đạt được những kết quả đáng kể [73, tr.17].
Trong nghiên cứu Association for the Advancement of Social Work with Groups, Inc., (2010) Standards for Social Work Practice with Groups đã đề cập tới những khía cạnh trong phương pháp CTXHN: cần tuân theo những quy tắc đạo đức của Hiệp hội Công tác xã hội Quốc gia; dựa vào các lý thuyết nhóm từ các khoa học xã hội; dựa vào những kiến thức về cá nhân, môi trường và lịch sử hình thành phương pháp CTXHN. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ rõ khi ứng dụng phương pháp can thiệp CTXHN cần chú ý tới hỗ trợ tâm lý, tập trung tới các loại hình nhóm, tiến trình CTXHN cũng như những đặc tính riêng của từng nhóm [159].
Bên cạnh đó, phải kể tới nghiên cứu của Trevithick, P., 2013. Nghiên cứu đã đề cập tới cơ sở lý thuyết, kiến thức và cách can thiệp nhóm. Để trợ giúp cho một nhóm, NVCTXH cần hiểu được: loại hình nhóm; cách thức tiếp cận nhóm; lợi thế/điểm mạnh, hạn chế của nhóm; chú ý tới cấu trúc và ranh giới của nhóm; địa điểm, thời gian, thành viên, quy mô nhóm; phong cách làm việc của nhóm; nguyện vọng, mong muốn của nhóm….[183].
Cũng trong nghiên cứu trên của Trevithick, P., 2013 đã đề cập tới 4 giai đoạn hình thành và phát triển của can thiệp nhóm: 1) Giai đoạn tập hợp, định hướng nhóm; 2) Giai đoạn thăm dò nhóm; 3) Giai đoạn thực hiện và đạt được những kết quả; 4) Giai đoạn kết thúc [183].
Nhìn chung các nghiên cứu đều chỉ ra được mặt tích cực của phương pháp CTXHN cũng như những yêu cầu khi thực hiện phương pháp này, trong đó cần tuân thủ các bước cũng như chú ý tới quy mô nhóm và các cách tiếp cận, can thiệp nhóm.
Các công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động công tác xã hội nhóm:
CTXHN là một phương pháp có tiến trình, quy tắc cũng như những hoạt động và mục tiêu cụ thể cho từng nhóm đối tượng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các hoạt động can thiệp cho các nhóm TEMC có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới
các hoạt động đó, có thể là những yếu tố thuộc về người lãnh đạo, NVCTXH, từ phía TEMC hay các yếu tố về chính sách hoặc cơ sở vật chất.
Trong một số nghiên cứu có chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động làm việc nhóm trong CTXH như: các yếu tố thuộc về lĩnh vực hoạt động của nhóm; các yếu tố thuộc về kỹ năng tương tác nhóm; các yếu tố thuộc về môi trường hoạt động nhóm; các yếu tố thuộc về sự kỳ vọng của các thành viên trong nhóm và các yếu tố thuộc về bầu không khí và sự hứng thú trong nhóm. Quan điểm này được đề cập trong các nghiên cứu [181], [184].
Như vậy, việc tổ chức các hoạt động CTXHN thường chịu tác động bởi một số yếu tố. Trong nhận thức của tác giả, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại những tác động thuộc về các yếu tố như: sở thích của nhóm, sự tương tác của các thành viên trong nhóm, mà chưa đề cập tới những tác động từ phía người quản lý; kiến thức, kỹ năng chuyên môn của NVCTXH; các tác động từ phía chính sách…
Các công trình nghiên cứu về các giải pháp liên quan tới hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi:
Có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các giải pháp, trong đó phải kể tới các nghiên cứu hướng tới mô hình gia đình thay thế. Với mô hình này, trẻ vẫn được sống trong các gia đình có bố, mẹ, anh chị em và dễ dàng được đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Giải pháp này được đề cập cụ thể trong các nghiên cứu: The African Child Policy Forum (ACPF), 2013; Kang, K., 2010 với nghiên cứu Orphans reunification project evaluation hay của Viện đào tạo Công tác xã hội (Institute of Social Work and Midwest AIDS Training and Education Center and Jane Addams College of Social Work). Các nghiên cứu trên đều nhấn mạnh tới việc phát huy vai trò chăm sóc cho TEMC thông qua gia đình thay thế là họ hàng và cộng đồng với sự hỗ trợ về tài chính cũng như tập huấn về cách thức, phương pháp để phát triển kinh tế gia đình, cách nuôi dạy trẻ thông qua các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước. Các tác giả cũng đã chỉ rõ, để hạn chế tình trạng trẻ phải vào các trung tâm nuôi dưỡng TEMC cần sự chung tay của họ hàng, cộng đồng và các tổ chức Phi chính phủ. Quan điểm đó cũng được đề cập trong các nghiên cứu [171], [179].
Nghiên cứu của The African Child Policy Forum (ACPF), 2013 đã chỉ ra: nếu trẻ được sống trong các gia đình thay thế (gia đình sinh học) các em sẽ học hỏi và tham gia vào các truyền thống văn hoá gia đình, có hiểu biết về lịch sử của đất
nước, biết chia sẻ và học các kỹ năng xã hội quan trọng, từ đó giúp các em tham gia và tương tác với các thành viên khác trong gia đình và xã hội một cách tốt nhất, làm nền tảng cho sự phát triển và hình thành nhân cách tích cực cho trẻ sau này. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng chính sự tương tác giữa trẻ với các anh/chị em trong gia đình và với cha mẹ giúp kích thích phát triển trí não cho trẻ. Trong khi đó, với sự tương tác không nhất quán, không kịp thời cũng như không đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các cá nhân, nhóm trẻ, sẽ khiến các em cảm thấy không được yêu thương, chia sẻ [179], [180, tr.9].
Một giải pháp khác được đặt ra đối với TEMC đó là cần có các chương trình giúp đỡ cho các gia đình "Có nguy cơ" có TEMC, giúp họ chăm sóc tốt hơn cho trẻ em và giải quyết một số nguyên nhân cơ bản gây ra stress cho trẻ hoặc người chăm sóc trẻ. Đầu tư vào các chương trình như: trung tâm phát triển thiếu nhi, các nhóm hỗ trợ nuôi dạy con, hỗ trợ sinh kế và các dịch vụ làm giảm tác động tiêu cực của đói nghèo. Các giải pháp này đã được chứng minh là có lợi ích lâu dài không chỉ giúp ích cho trẻ em và gia đình mà còn cho các cộng đồng [179, tr.9].
Chính vì vậy, giải pháp quan trọng mà các nhà nghiên cứu hướng tới chính là giúp các em được sống trong các gia đình thay thế, được sống trong sự yêu thương, chia sẻ, tương tác với các thành viên trong gia đình, từ đó giúp trẻ phát triển được kỹ năng xã hội. Mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới các giải pháp dành cho TEMC, nhưng vẫn còn khá ít các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động CTXHN đối với TEMC tại các cơ sở chăm sóc trẻ em.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về trẻ em mồ côi
Trong một số nghiên cứu các tác giả phân biệt TEMC có những đặc điểm khác với trẻ em bình thường như: thiếu thốn tình cảm, vật chất, tự ti, mặc cảm, sống khép mình... Cũng trong các nghiên cứu đó, các tác giả đã chỉ ra sự khác biệt còn thể hiện ở khía cạnh về: sức khỏe thể chất, tinh thần, nhu cầu, vận động, tâm – sinh lý, hoàn cảnh sống, môi trường sống, điều kiện học tập, vui chơi... [48], [108, tr.30].
Trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị Hương Giang (2016) cũng chỉ ra những đặc điểm TEMC là đối tượng dễ bị tổn thương và cần nhận được sự chăm sóc, bảo vệ của cộng đồng [40].
Từ những nghiên cứu trên tác giả nhận thấy TEMC có những đặc điểm chung như: tự ti, mặc cảm, dễ bị tổn thương, cần được đáp ứng các nhu cầu về vật chất, tinh thần... có những điểm khác biệt và các em cần nhận được sự giúp đỡ, bảo vệ của cả cộng đồng.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng trẻ em mồ côi
Thực tế hiện nay cho thấy số lượng TEMC có chiều hướng gia tăng và thể hiện trong Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, phương hướng, nhiệm vụ năm 2019 của Cục bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Tính tới hết năm 2018, toàn quốc có khoảng 1,43 triệu trẻ em có HCĐB (trên 1,2 triệu em khuyết tật, trên 170 nghìn TEMC, trên 6.800 trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS trong diện được quản lý) [25, tr.2]
Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra thực trạng TEMC ngày càng gia tăng, nguyên nhân xuất phát tỷ lệ trẻ vị thành niên có thai trong tổng số người mang thai tăng liên tục qua các năm, cụ thể 2,9% (2010); 3,1% (2011); 3,2% (2012). Khi trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn sẽ bỏ rơi con và dẫn tới tình trạng số lượng TEMC ngày càng gia tăng trong những năm gần đây [14, tr.7]
Bên cạnh đó, một thực trạng dễ nhận thấy là các cơ sở chăm sóc TEMC ngày càng được mở rộng và nhiều hơn tại tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Chính con số đó thể hiện rõ số lượng TEMC ngày càng gia tăng.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về hoạt động, phương pháp và tiến trình công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi
Các hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi:
Công tác xã hội nhóm đối với TEMC được thực hiện đa dạng dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu, đặc điểm, độ tuổi của mỗi nhóm trẻ và các kế hoạch hỗ trợ của các cơ sở chăm sóc TEMC.
Một số nghiên cứu gần đây đã đề cập và phân tích cụ thể về các hoạt động CTXHN liên quan tới: hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng; hoạt động giáo dục; hoạt động vui chơi, giải trí; hoạt động kết nối. Các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu các hoạt động liên quan tới các nhu cầu cơ bản cho TEMC, tiến hành khảo sát và đánh giá về việc đáp ứng các nhu cầu đó cho TEMC. Tuy một số tác giả đã phân tích sâu về các hoạt động đó, nhưng chưa tập trung sâu về các hoạt động chuyên biệt dành cho TEMC cũng như mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các giải pháp mà chưa thực nghiệm
tiến trình can thiệp CTXHN cho một nhóm TEMC, các kết quả đó được đề cập trong các nghiên cứu [40], [48], [65], [114].
Bên cạnh các nghiên cứu về một số hoạt động liên quan tới các nhu cầu cơ bản của các nhóm TEMC, các tác giả đã đề cập tới nhu cầu chuyên biệt cho TEMC như: nhu cầu về hỗ trợ tâm lý – xã hội. Trong nội dung này, các tác giả đã phân tích các mục tiêu cụ thể trong hoạt động hỗ trợ tâm lý như: tư vấn, tham vấn, trị liệu, động viên, khích lệ tinh thần giúp trẻ nâng cao kiến thức và năng lực ứng phó với các vấn đề phát sinh trong cuộc sống [114, tr23].
Nhìn chung, có khá nhiều nghiên cứu liên quan tới TEMC, nhưng các công trình nghiên cứu về hoạt động CTXHN đối với TEMC vẫn còn hạn chế về cả số lượng và chiều sâu. Để có nhiều hoạt động CTXHN mang tính chuyên sâu, đáp ứng đúng các nhu cầu chuyên biệt của TEMC, rất cần tới đội ngũ NVCTXH chuyên nghiệp và nhiệt huyết.
Các công trình nghiên cứu về phương pháp và tiến trình công tác xã hội nhóm nói chung và tiến trình công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi nói riêng:
- Nghiên cứu về phương pháp và tiến trình CTXHN nói chung:
Ở Việt Nam, phương pháp CTXHN đã xuất hiện từ khá sớm, nhưng nó thực sự phát triển và mang tính khoa học từ năm 2004, khi mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình khung ngành công tác xã hội theo Quyết định số 35/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 11 tháng 10 năm 2004. Hiện nay, cả nước đã có khoảng hơn 55 cơ sở đào tạo ngành CTXH trong đó có học phần CTXHN.
Đã có một số tác giả nghiên cứu và biên soạn giáo trình về phương pháp CTXHN, trong đó phải kể tới tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2012) và tác giả Nguyễn Duy Nhiên (2010) với cuốn giáo trình Công tác xã hội nhóm. Cả hai tác giả đã đề cập một cách bao quát các khía cạnh của phương pháp CTXHN như: lịch sử hình thành phương pháp CTXHN; phân loại nhóm; đặc trưng của nhóm; hệ thống các lý thuyết nhóm; tiến trình CTXHN; kỹ năng của nhân viên công tác xã hội khi can thiệp nhóm…[73], [94].
Không chỉ dừng lại ở những kiến thức cơ bản về phương pháp CTXHN mà nhiều tác giả cũng đã đi sâu và phân tích, làm rõ những kỹ năng CTXHN dành riêng cho sinh viên ngành CTXH. Trong cuốn Kỹ năng công tác xã hội nhóm dành cho Sinh viên ngành công tác xã hội của tác giả Hà Thị Thư (2012) đã trình bày một cách hệ
thống và chuyên sâu từ góc độ lý luận đến nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng CTXHN của sinh viên ngành CTXH. Trong nghiên cứu, tác giả cũng đã phân tích sâu và cụ thể hóa kết quả nghiên cứu liên quan tới các nhóm kỹ năng cơ bản như: nhóm kỹ năng tổ chức giao tiếp; kỹ năng thúc đẩy tiến trình nhóm và kỹ năng điều phối nhóm [132].
Từ những nghiên cứu mang lý luận về phương pháp CTXHN, tác giả nhận thấy đa số các tác giả đã nghiên cứu, trình bày bao quát, tổng thể về tất cả các khía cạnh của phương pháp CTXHN. Đặc biệt có những nghiên cứu đã đi sâu, cụ thể, chi tiết về nhiều khía cạnh của phương pháp CTXHN để người đọc có thể tham khảo, so sánh và vận dụng tốt hơn trong các tình huống can thiệp thực tế. Đó cũng là hướng tiếp cận và nghiên cứu của tác giả khi vận dụng các lý thuyết CTXHN vào nghiên cứu 3 mô hình cụ thể.
Ngoài ra cũng còn một số nghiên cứu liên quan tới ứng dụng phương pháp can thiệp nhóm như:
Với hướng can thiệp CTXHN cho nhóm người tâm thần đã được hai tác giả là Bùi Thanh Hà (2016) và Nguyễn Thị Loan (2016) đi sâu nghiên cứu cụ thể và bao quát nhiều khía cạnh liên quan tới hoạt động CTXHN cho nhóm người tâm thần. Cả hai tác giả đã phân tích, đánh giá về những khó khăn của nhóm người tâm thần và ứng dụng phương pháp CTXHN nhằm hỗ trợ, can thiệp giúp cải thiện phần nào những khó khăn trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của một nhóm người tâm thần. Tác giả Bùi Thanh Hà với nghiên cứu Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần từ thực tiễn trung tâm điều trị và phục hồi chức năng tâm thần kinh tỉnh Thái Nguyên, đã khái quát được những khía cạnh liên quan tới đặc điểm, nhu cầu của người tâm thần. Tuy nhiên, hoạt động CTXHN chưa được ứng dụng cụ thể mà chỉ mang tính chất đề xuất [42], [81].
Ngoài ra cũng có những hướng can thiệp phương pháp CTXHN hướng tới những nhóm học sinh tại các trường học. Điển hình là nghiên cứu của các tác giả Mai Quỳnh Mai (2013) về “Công tác xã hội nhóm trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh trường trung học phổ thông Trần Phú, tỉnh Thanh Hóa” [86] hay nghiên cứu về “Giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ thông” của tác giả Phạm Thị Thanh Thúy (2014) [130], các nghiên cứu đều hướng tới trợ giúp và giảm thiểu những khó khăn tiến tới nâng cao nhận thức cho các nhóm học sinh thông hình thức làm việc nhóm cùng với những đề xuất các giải pháp cụ thể.
19
Từ những nghiên cứu về lý thuyết phương pháp CTXHN cũng như những ứng dụng về phương pháp CTXHN của các tác giả, luận án đã có hướng tiếp tục phát triển về những ứng dụng CTXHN dành cho nhóm TEMC tại các cơ sở chăm sóc trẻ em. Tác giả cũng nhận thấy tại các cơ sở chăm sóc TEMC, các hoạt động về chăm sóc và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của trẻ đa số được thực hiện khá tốt, nhưng các hoạt động can thiệp CTXHN vẫn còn nhiều hạn chế và hầu như chưa được thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả.
- Các công trình nghiên cứu về phương pháp và tiến trình CTXHN với TEMC:
TEMC là đối tượng đặc biệt của CTXH cần can thiệp và trợ giúp nhằm cải thiện những khó khăn mà các em gặp phải, tiến tới phát triển một cách toàn diện.
Với hướng ứng dụng can thiệp phương pháp CTXHN nhằm nâng cao khả năng giao tiếp xã hội và giảm mặc cảm tự ti cho TEMC có một số tác giả đã thực hiện như: tác giả Ngân Thị Liên (2012) với nghiên cứu “Ứng dụng phương pháp nhóm nhằm nâng cao khả năng giao tiếp xã hội cho nhóm TEMC tại nhà trẻ Hữu Nghị - Lạc Trung – Hai Bà Trưng – Hà Nội”; tác giả Đỗ Thị Huyền Trang (2015) với nghiên cứu “Công tác xã hội với TEMC nhằm giảm thiểu mặc cảm tự ti để nâng cao khả năng hòa nhập môi trường học đường (Nghiên cứu trường học tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh Ninh Binh)” [70], [106]. Cả hai nghiên đều đi sâu tìm hiểu thực tế về họat động CTXHN nhóm cũng như những khó khăn của trẻ đang gặp phải tại các cơ sở chăm chăm sóc trẻ em, từ đó tiến hành ứng dụng phương pháp can thiệp CTXHN nhóm nhằm giúp cho một số trẻ có thể hòa nhập tốt với môi trường học đường, giảm được sự mặc cảm tự ti và sống vui vẻ hòa đồng hơn.
Trong hướng nghiên cứu liên quan tới nhóm trẻ em có hành vi gây hấn tại các cơ sở chăm sóc trẻ em phải kể tới tác giả Bùi Văn Lợi (2014) với nghiên cứu “ Công tác xã hội nhóm với can thiệp trợ giúp trẻ em vị thành niên có hành vi gây hấn (Nghiên cứu trường hợp tại trường Trung học Cơ sở Ngọc Châu, thành phố Hải Dương); tác giả Phạm Thị Thanh Thúy (2015) với nghiên cứu “Công tác xã hội nhóm trong việc giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh Trung học Phổ thông” [82], [130]. Trong các nghiên cứu về hành vi gây hấn của TEMC tại các cơ sở chăm sóc trẻ em, các tác giả đã đi sâu phân tích đặc điểm tâm – sinh lý, những khó khăn và nhu cầu của lứa tuổi trẻ vị thành niên, từ đó có những đánh giá và có các hoạt động can thiệp cho một nhóm trẻ vị thành niên là TEMC tại các cơ sở chăm sóc trẻ
20