quản lý DTBB, từ nối tiếp sang trùng nhau một phần, nhằm hạn chế tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng khi sử dụng DTBB trong quản lý vốn khả dụng.
Cũng có thể áp dụng kinh nghiệm của Mỹ về yêu cầu số dư thanh toán bù trừ bắt buộc bên cạnh DTBB tối thiểu để giúp ngân hàng Trung ương dễ dàng hơn trong việc quản lý và dự báo nhu cầu vốn khả dụng của các TCTD. Công cụ DTBB cần được hoàn thiện theo hướng nâng cao khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả. Tỷ lệ DTBB cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh các công cụ khác của CSTT [31].
Mặt khác, khi quy định tỷ lệ DTBB cần chú ý tới quy mô hoạt động của các TCTD hiện nay sao cho hợp lý. Còn về đối tượng thi hành quy chế DTBB cần bổ sung thêm ngân hàng Hợp tác xã quỹ tín dụng nhân dân và Hợp tác xã tín dụng để phù hợp với quy định nội dung Luật các TCTD; cần xử lý nghiêm việc vi phạm quy định về thực hiện DTBB của các TCTD, tăng cường kiểm tra việc thực hiện chế độ DTBB của các TCTD.
3.1.4. Hoàn thiện các quy định theo hướng điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt
Đối với công cụ tỷ giá, các biện pháp mạnh mẽ và hiệu quả cần được áp dụng bao gồm:
Thứ nhất, thay đổi quy định về cơ chế điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng bằng quy định về cơ chế điều hành theo tỷ giá trung tâm.
Ngày 25/02/1999, Thống đốc NHNN đã ký các Quyết định số 64/1999/QĐ- NHNN và Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN ban hành cơ chế tỷ giá dựa trên tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (tỷ giá bình quân liên ngân hàng). Nội dung cơ bản của quy chế này là: (i) hàng ngày, NHNN công bố tỷ giá BQLNH của ngày hôm trước để làm cơ sở cho các NHTM xác định tỷ giá giao dịch với khách hàng cho ngày hôm sau; (ii) tỷ giá giao dịch của NHTM được xác định trong phạm vi biên độ 0,1% so với tỷ giá BQLNH do NHNN công bố. Cơ chế này đã khẳng định nguyên tắc cơ bản của chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn này là: “tỷ giá được xác định theo cung cầu của thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước”. Thực tế điều hành tỷ giá trong thời gian qua cho thấy tỷ giá BQLNH thực chất phản ánh mức tỷ giá trung tâm theo mục
tiêu điều hành của NHNN. Do thị trường ngoại hối Việt Nam chịu tác động mạnh từ các biến động tâm lý, để đảm bảo thực hiện các mục tiêu điều hành tỷ giá trong từng thời kỳ, NHNN buộc phải điều tiết thị trường một cách hợp lý thông qua công cụ tỷ giá BQLNH. Đặc biệt, trong hơn hai năm trở lại đây, tại những thời điểm cung cầu ngoại tệ căng thẳng, trong khi tỷ giá giao dịch của các NHTM phổ biến ở mức tỷ giá trần hoặc tỷ giá sàn, để ổn định thị trường ngoại hối, NHNN buộc phải duy trì tỷ giá BQLNH tương đối ổn định. Thực tế này khiến cho tỷ giá BQLNH được công bố và tỷ giá BQLNH theo nguyên tắc tính toán có sự chênh lệnh rất rõ rệt và do đó, bản thân các thành viên tham gia thị trường ngoại hối cũng nhìn nhận tỷ giá BQLNH do NHNN công bố hiện nay là tỷ giá mục tiêu của NHNN. Trong khi tỷ giá BQLNH được xác định là yếu tố quan trọng trong công tác điều hành chính sách tỷ giá, nếu duy trì lâu dài sự không thống nhất giữa nguyên tắc tính toán và mức công bố sẽ không thể tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tin vào chính sách của thị trường.
Về vấn đề này, trong Báo cáo “tăng cường khuôn khổ họat động cho chính sách tiền tệ” của Việt Nam tháng 6/2008, IMF cũng khuyến nghị Việt Nam duy trì sự nhất quán giữa quy tắc được công bố và việc xác định trên thực tế về mức tỷ giá chính thức để đưa ra hướng dẫn tốt hơn cho các kỳ vọng của thị trường. Do thị trường ngoại hối dự kiến còn có thể tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với đặc điểm thị trường ngoại hối của Việt Nam chịu tác động mạnh từ các biến động tâm lý, trong thời gian tới, việc tiếp tục sử dụng tỷ giá trung tâm trong điều hành tỷ giá vẫn là cần thiết. Vì vậy, để duy trì lòng tin của thị trường đối với chính sách tỷ giá và uy tín của NHNN, NHNN cần công bố cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm thay cho cơ chế điều hành tỷ giá BQLNH hiện tại.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình hình xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài có những diễn biễn phức tạp. Vì vậy, NHNN phải theo sát thực tế thị trường để có những điều chỉnh hoặc can thiệp kịp thời nhằm kiểm soát tỷ giá mục tiêu một cách linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô [8].
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Pháp Luật Về Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Thực Trạng Pháp Luật Về Công Cụ Nghiệp Vụ Thị Trường Mở Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Nhóm Giải Pháp Về Hoàn Thiện Pháp Luật Điều Chỉnh Các Công Cụ Của Chính Sách Tiền Tệ
- Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo pháp luật Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.
Thứ hai, duy trì biên độ tỷ giá tương đối ổn định.
Cũng giống như tỷ giá BQLNH, biên độ tỷ giá là một công cụ đắc lực của chính sách tỷ giá và là căn cứ để xác định tỷ giá giao dịch trên thị trường. Với
mục tiêu giúp cho tỷ giá biến động hai chiều linh hoạt hơn, bám sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường, biên độ tỷ giá trong thời gian qua đã từng bước được điều chỉnh theo hướng ngày càng mở rộng hơn, từ mức ±0,1% lên mức ±5%.
Việc điều chỉnh biên độ tỷ giá theo chiều hướng ngày càng mở rộng đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Cơ chế tỷ giá ngày càng linh hoạt đã tạo điều kiện cho các ngân hàng và doanh nghiệp chủ động lập phương án sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào NHNN, đồng thời đòi hỏi các NHTM và thành viên tham gia thị trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá để đảm bảo hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, qua đó phát triển thị trường ngoại hối và giúp cho thị trường ngoại hối hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc mở rộng biên độ tỷ giá là phù hợp với định hướng quản lý tỷ giá theo hướng ngày càng linh hoạt, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian qua, việc mở rộng biên độ tỷ giá với tốc độ và biên độ mạnh đã góp phần tích cực vào sự gia tăng tính linh hoạt của chế độ tỷ giá. Tuy nhiên, việc mở biên độ tỷ giá ở mức cao cũng khiến cho công tác quản lý tỷ giá đặt ra một số vấn đề mới cần giải quyết như: (i) làm tăng quy mô can thiệp thị trường; (ii) việc điều chỉnh, can thiệp tỷ giá phải được cân nhắc, xem xét thận trọng. Mặc dù việc mở rộng biên độ tỷ giá giúp cho các thành viên tham gia thị trường thích nghi và linh hoạt hơn với biến động tỷ giá. Tuy nhiên việc mở rộng biên độ tỷ giá ở mức cao cũng đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho tỷ giá biến động trong biên độ lớn, làm tăng rủi ro tỷ giá đối với các thành viên tham gia thị trường, đặc biệt là đối với các NHTM. Do vậy, để đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế, biên độ tỷ giá nên được điều hành tương đối ổn định, tập trung xử lý biến động ngắn hạn quá mức để đảm bảo ổn định dài hạn tương đối phù hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô chủ chốt [8].
Theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô: kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ dự trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ
giá. Phải ngăn chặn sự phát triển và tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do. Nhưng do cơ chế quản lý, điều hành, nên thị trường tự do vẫn tồn tại. Vấn đề đặt ra là cần thực hiện triệt để mục tiêu trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng trên Việt Nam. Đồng thời thực hiện nhất quán mục tiêu ổn định tỷ giá, linh hoạt can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại tệ. [8]
3.1.5. Hoàn thiện các quy định theo hướng tăng cường sử dụng nghiệp vụ thị trường mở
Trong thời gian tới, để công cụ NVTTM phát huy hiệu quả cao hơn, thiết nghĩ nên triển khai một số biện pháp cơ bản, trước mắt như sau:
Một là, về cơ sở pháp lý. NHNN nên giải quyết một số vấn đề hiện đang cản trở sự phát triển NVTTM, đó là: cho phép đa dạng hóa kỳ hạn giao dịch, tiến tới đưa ra giao dịch mua, bán kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường mở hoạt động linh hoạt và kịp thời, sau đó bổ sung phương thức giao dịch hoán đổi ngoại tệ nhằm linh hoạt hơn trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng.
Hai là, đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các loại hàng hóa giao dịch trên thị trường. Trong điều kiện NVTTM ngày càng tham gia nhiều hơn trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, do đó cần đa dạng hóa các hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm tạo những cơ hội tốt cho các thành viên trong việc lựa chọn GTCG để tham gia giao dịch. Muốn vậy cần bổ sung các quy định về chứng chỉ tiền gửi vào trong Luật Các công cụ chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại GTCG này. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý để thương phiếu có thể tham gia giao dịch trên thị trường mở như trái phiếu do NHNN phát hành, trái phiếu do công ty có uy tín phát hành. Việc bổ sung này đòi hỏi phải có bước đi phù hợp trong cơ sở xây dựng các quy định chặt chẽ để đảm bảo lợi ích của các bên tham gia.[33]
Thực tế cho thấy hàng hóa của thị trường mở còn khá nghèo nàn, chủ yếu là tín phiếu ngân hàng. Các phương tiên giao dịch như các loại trái phiếu thời hạn ngắn, chứng khoán do bản thân các ngân hàng phát hành… vẫn chưa giao dịch trên thị trường này. Thêm vào đó, khối lượng tín phiếu ngân hàng còn quá nhỏ so với quy mô vốn của ngân hàng. Như vậy, NVTTM chưa thực sự có tác động lớn đến cung cầu vốn trên thị trường. Việc tăng khối lượng hàng hóa giao dịch sẽ thu hút nhiều TCTD tham gia thị trường mở.
Mặt khác, cần tăng tính hấp dẫn các GTCG đang giao dịch. Đối với tín phiếu Kho bạc Nhà nước, có thể bổ sung thêm các kỳ hạn phát hành là 30, 60 ngày thay vì chỉ có các kỳ hạn đang phát hành hiện nay là 91, 183 và 273 và 364 ngày, với lãi suất linh hoạt, sát thị trường nhằm tăng tính thanh khoản cho hàng hóa tham gia thị trường. [33]
Ba là, NHNN cần tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường thứ cấp về giấy tờ có giá. Hệ thống công nghệ thông tin cần được không ngừng nâng cấp nhằm hỗ trợ NHNN nắm bắt kịp thời các thông tin thị trường (nhu cầu vốn của nền kinh tế, khả năng thanh toán của các NHTM…) để đưa ra quyết định sát thực và chính xác. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng nâng cao độ an toàn, chuẩn xác trong các hoạt động giao dịch tiền tệ, tăng hiệu quả hoạt động (nhờ rút ngắn thời gian giao dịch), cũng như cải tiến các chương trình phần mềm ứng dụng về lưu ký về giấy tờ có giá tại Sở Giao dịch NHNN nhằm theo dõi và thanh toán giấy tờ có giá của NHNN và của các TCTD.
Bốn là, NHNN cần không ngừng bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy trình liên quan đến NVTTM, như đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá; thủ tục về lập hợp đồng, quy trình giao dịch qua mạng… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD khi tham gia giao dịch rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí giao dịch. Hiện nay, NHNN sử dụng phương pháp đấu thầu khối lượng để xét thầu. Xét về mặt lý thuyết, phương pháp này là hợp lý. Tuy nhiên, do các thành viên là các TCTD có quy mô lớn, sở hữu lượng GTCG lớn nên khối lượng trúng thầu trong từng phiên chiếm tỷ lệ lớn làm cho các TCTD có quy mô nhỏ trúng thầu với khối lượng khá khiêm tốn, không đủ nhu cầu tiền mặt nên phải vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hơn. Vì vậy, NHNN nên chăng nghiên cứu việc phân nhóm thành viên trong đấu thầu NVTTM. Có thể áp dụng chào thầu riêng cho nhóm TCTD lớn và nhóm TCTD nhỏ theo khối lượng phù hợp mà không ảnh hưởng tới lượng cung tiền mục tiêu. [9]
Năm là, NHNN nên nghiên cứu tăng thêm số phiên giao dịch. Hiện số phiên giao dịch mỗi ngày là 2, với kỳ hạn giao dịch 14 ngày và 28 ngày. Tăng phiên giao dịch đồng nghĩa với việc tăng thời gian tiếp xúc của TCTD với NHNN. Qua đó, sự hỗ trợ của NHNN với tư cách là người cho vay cuối cùng sẽ
tốt hơn.
Sáu là, cần gia tăng hơn nữa số lượng thành viên tham gia thị trường mở. Thực tế cho thấy, thành viên tham gia thị trường mở thời gian qua đã có sự gia tăng về số lượng và đa dạng hóa về loại hình. Nếu như trước đây, thị trường mở hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, các khối ngân hàng khác còn đứng ngoài cuộc, thì hiện nay thị trường mở Việt Nam đã có sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, NHTM cổ phần…Tuy nhiên còn một bộ phận không nhỏ các NHTM cổ phần nhỏ chưa tham gia thị trường mở, do quy mô vốn bé, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng cũng như chưa quen nên chưa tham gia hoặc còn lúng túng trong việc tham gia đấu thầu tại thị trường tiền tệ thứ cấp này. Gia tăng số lượng thành viên cũng góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của NVTTM trong việc điều hành lượng tiền lưu thông của NHNN, nhờ đó tăng được độ sâu và lan tỏa của CSTT.
Bảy là, định kỳ nên tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động của các thành viên tham gia thị trường mở. Để hoạt động thị trường mở đảm bảo khả năng điều tiết lượng tiền cung ứng, đáp ứng yêu cầu mục tiêu CSTT cũng như khả năng hỗ trợ vốn khả dụng cho các TCTD, NHNN cần:
- Hàng quý, 6 tháng, 1 năm, nên lấy ý kiến thành viên tham gia thị trường về: kế hoạch tham gia thị trường trong tương lai, kết quả đạt được, những khó khăn vướng mắc trong quá trình tham gia thị trường mở và những đề xuất đối với thị trường mở.
- Định kỳ hàng năm, NHNN chủ động xem xét, đánh giá kỹ hơn, cụ thể hơn với ý kiến tham gia rộng rãi về tình hình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của các thành viên tham gia thị trường. Việc đánh giá có thể chia ra các nhóm TCTD tham gia với các tiêu chí phù hợp [33].
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC THỰC THI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
3.2.1. Nâng cao năng lực thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Theo quy đinh của Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010, tính độc lập của NHNN Việt Nam đang dần được cải thiện. Vì vậy,
để đạt được hiệu quả trong thực thi CSTT thì mục tiêu cần hướng tới là việc tăng cường tính độc lập cho NHNN. Để tăng tính độc lập của NHNN trong khuôn khổ các quy định của Luật NHNN 2010, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, xác định rõ mục tiêu hoạt động cho NHNN. Đối với hầu hết các nước trên thế giới, mục tiêu chính của NHTƯ các nước là bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền, những mục tiêu còn lại là hệ quả của việc đạt được các mục tiêu nêu trên. Ví dụ, Điều 3 Chương I Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc quy định: “Mục tiêu của chính sách tiền tệ là duy trì ổn định đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”; Điều 4 Chương I Luật ngân hàng quốc gia Hungari quy định: “Nhiệm vụ cơ bản của ngân hàng quốc gia Hungari là ổn định và bảo vệ sức mua trong và ngoài nước của đồng tiền quốc gia”. Khoản 1 Điều 4, Luật NHNN 2010 quy định: “Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, các mục tiêu hoạt động của NHNN được quy định trong Luật có phần “ôm đồm”. Vì thế, chỉ nên xác định mục tiêu của NHNN đó là “bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền trong nền kinh tế”. Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì mục tiêu có rõ ràng thì NHTƯ mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của mình. Hơn nữa, việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một NHTƯ.
Hai là, NHNN phải thực sự được độc lập trong quyết định thực thi chính sách và việc lựa chọn công cụ điều hành. Thống đốc phải được trao quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó mà không cần phải thông qua Chính phủ. Đồng thời, NHNN phải được trao đầy đủ thẩm quyền trong việc lựa chọn các công cụ điều hành CSTT một cách linh hoạt và phù hợp nhất cũng như kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm phát, để có thể đạt được các mục tiêu CSTT mà Chính phủ hay Quốc hội đã đề ra. Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTƯ.[7]
Ba là, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách hay tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối theo đúng mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có qui định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.
Bốn là, trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính và độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm). Để thực thi tốt CSTT, NHNN cần phải thu hút được một đội ngũ đông đảo những chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải cạnh tranh được với các NHTM về môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Do đó, Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những khoản thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh, cục, vụ, viện trực thuộc. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất.
Ngoài ra, để nâng cao vai trò và chất lượng của sự phản biện trong việc thi hành chính sách, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTƯ của các nước phát triển am hiểu về điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
Năm là, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị của Quốc hội phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết