quan quản lý kiểm tra thông tin trước khi nó được công bố ra thị trường. Với cơ chế CBTT trực tiếp, các thông tin sai lệch được phát hiện sau khi được công bố ra thị trường thông qua công tác giám sát từ cơ quan quản lý. Chính vì vậy một cơ chế CBTT hiệu quả khuyến khích sự minh bạch của công ty đại chúng tại Việt Nam nên là sự kết hợp giữa cơ chế CBTT trực tiếp và gián tiếp, kèm theo đó là công tác giám sát thị trường của cơ quan quản lý. Ngoài ra, pháp luật cũng cần quy định chặt chẽ và rõ ràng về việc công ty đại chúng phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra đối với các nhà đầu tư liên quan đến việc cung cấp những thông tin sai lệch, không đầy đủ hoặc bị bóp méo và phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gây ra khi CBTT không đầy đủ và thiếu chính xác.
3.2.3. Hoàn thiện phương tiện công bố thông tin
Để thực hiện CBTT có hiệu quả, tại các TTCK phát triển, công ty đại chúng thường thực hiện công bố thông tin trên những hệ thống chuyên biệt nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin theo những quy trình chặt chẽ và cụ thể, giúp cho người sử dụng dễ dàng tiếp cận đến thông tin. Tại Việt Nam, công ty đại chúng thực hiện cơ chế công bố thông tin trực tiếp thông qua website. Tuy nhiên, hạ tầng công nghệ tại Việt Nam vẫn chưa thực sự hiện đại và hiện chưa có một Trung tâm dữ liệu lưu trữ thông tin công bố. Do vậy, kiến nghị về phương tiện, hình thức công bố thông tin như sau:
- Thứ nhất, cơ quan quản lý và công ty đại chúng cần đồng thời phát triển một hệ thống CBTT số hóa dựa trên nền Web. Hiện nay, UBCKNN đã xây dựng hệ thống CBTT dành cho công ty đại chúng (IDS), SGDCK Hà Nội đã triển khai hệ thống CBTT tự động CIMS, và SGDCK Tp.HCM đang hoàn thiện hệ thống CBTT điện tử. Tuy nhiên, hệ thống CBTT giữa các SGDCK và UBCKNN chưa đồng bộ, nên cùng một thông tin công bố, các công ty phải thực hiện các cách thức báo cáo khác nhau (tại UBCKNN, công ty đại chúng phải gửi các thông tin dưới dạng file điện tử theo mẫu quy định lên hệ thống IDS; tại HNX, công ty niêm yết/đăng ký giao dịch phải nhập trực tiếp thông tin trên hệ thống CIMS;
còn tại HOSE, công ty niêm yết phải gửi bản giấy hoặc file .pdf đến Sở khi có nội dung cần công bố). Điều này gây mất thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Do đó, cần có giải pháp để liên thông giữa các hệ thống này để công ty chỉ cần gửi báo cáo một lần, đảm bảo cho cả SGDCK và UBCKK đều có được thông tin; hoặc có phương án thống nhất về định dạng, mẫu biểu tài liệu giúp cho công ty thuận lợi hơn trong thực hiện nghĩa vụ báo cáo cho cơ quan quản lý.
- Thứ hai, cơ quan quản lý thị trường cần xây dựng một Trung tâm lưu giữ thông tin công bố, phục vụ cho công tác giám sát thị trường hiệu quả hơn. Trên thế giới, trung tâm này có thể đặt tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc đặt tại Cơ quan quản lý giám sát thị trường, tùy vào lựa chọn của từng nước. Đối với Việt Nam, việc đặt Trung tâm lưu trữ thông tin nên thuộc về UBCKNN do cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý thông tin của toàn bộ công ty đại chúng, trong khi SGDCK chỉ quản lý thông tin của công ty đại chúng niêm yết.
- Ba là, khuyến khích hoạt động của các hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp, nhất là khi TTCK phát triển.
Trên TTCK Mỹ - thị trường được coi là phát triển bậc nhất hiện nay, đội ngũ các hãng thông tin chuyên nghiệp phát triển khá hùng hậu. Các hãng này có vai trò quan trọng, cung cấp các thông tin rất phong phú cho các nhà đầu tư trên toàn thế giới, giúp nhà đầu tư có thể tìm hiểu về bất kỳ các công ty nào mà họ muốn đầu tư, từ đó nhà đầu tư rút gọn được thời gian tìm hiểu và đưa ra chiến lược đầu tư kịp thời. Chính vì thế, TTCK Mỹ luôn thu hút rất lớn số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Tại Việt Nam, việc thu hút một cách lâu dài nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là rất cần thiết cho doanh nghiệp cũng như cho cả nền kinh tế, do đó việc phát triển hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp sẽ là nhu cầu tất yếu trong tương lai.
3.2.4. Các giải pháp khác
Nâng cao trách nhiệm của công ty đại chúng:
Có thể bạn quan tâm!
- Những Bất Cập Và Tồn Tại Trong Hoạt Động Công Bố Thông Tin Của Công Ty Đại Chúng Trên Thị Trường Chứng Khoán
- Phương Hướng, Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Điều Chỉnh Hoạt Động Công Bố Thông Tin Của Công Ty Đại Chúng Trên Thị Trường Chứng Khoán
- Các Giải Pháp, Kiến Nghị Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Công Bố Thông Tin Của Công Ty Đại Chúng Trên Thị Trường Chứng Khoán
- Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Có thể thấy trong vấn đề tăng cường tính công khai, minh bạch của TTCK điều cần nhất là tính chủ động, ý thức tuân thủ pháp luật của chính các chủ thể
tham gia thị trường. Cơ quan quản lý cũng cần tuyên truyền để các công ty đại chúng ý thức hơn nữa lợi ích của việc CBTT. Chỉ khi bản thân các công ty công bố thông tin một cách có trách nhiệm thì các thông tin trên thị trường mới “có chất lượng” và quyền lợi nhà đầu tư mới được đảm bảo. Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát của UBCKNN cũng cần đạt hiệu quả, có các biện pháp xử lý vi phạm nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng một cách kịp thời, tạo tính răn đe đối với các hành vi vi phạm, từ đó nâng cao tính minh bạch thông tin của công ty đại chúng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm thành lập các quỹ bảo vệ nhà đầu tư tại một số nước. Các quỹ này ngoài vai trò bảo vệ nhà đầu tư, còn có trách nhiệm lên án các vi phạm nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng, họ kêu gọi công chúng đầu tư tẩy chay công ty đó. Sự quay lưng của nhà đầu tư, của khách hàng chính là “vũ khí” hữu hiệu có thể sử dụng để hạn chế các hành vi vi phạm nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng.
Nâng cao năng lực và vị thế của cơ quan quản lý:
Hiện nay vai trò của UBCKNN chưa đủ mạnh nên không giải quyết được vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự phản ứng nhanh, mạnh của cơ quan quản lý, giám sát thị trường. Do không có đủ thẩm quyền nên phản ứng của UBCKNN đôi khi chậm, chưa hiệu quả. Ở rất nhiều nước, việc quản lý, giám sát TTCK được thực hiện bởi một cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, với thẩm quyền tương đối rộng. Chẳng hạn, ở Mỹ, theo Luật Chứng khoán 1933, Ủy ban chứng khoán (SEC) là một cơ quan độc lập thuộc chính phủ. Ở Anh, Cơ quan Quản lý các dịch vụ tài chính (FSA) là một tổ chức phi chính phủ, được thành lập theo Luật Các thị trường và dịch vụ tài chính năm 2000. Ban điều hành FSA do Bộ Tài chính bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Cơ quan này hoàn toàn độc lập với chính phủ về tổ chức và kinh phí hoạt động. Tại Trung Quốc, Thái Lan, UBCK cũng đều là cơ quan thuộc chính phủ, có thẩm quyền tương đương với một bộ và người đứng đầu UBCK là thành viên Chính phủ. Trong khi đó ở Việt Nam, UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính (tương đương một Vụ thuộc Bộ). Do
đó, vị thế của UBCKNN không cao, mặt khác cơ quan này cũng không có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh các bằng chứng về các hành vi gian lận, đầu cơ, thao túng thị trường trong hoạt động đầu tư chứng khoán nên hiệu quả giám sát thị trường của UBCKNN còn hạn chế. Do đó, cần xem xét nâng vị thế cho cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán (UBCKNN) với đầy đủ chức năng lập quy, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi.
Ngoài ra, liên quan đến việc quản lý công ty đại chúng có thể thấy, hiện nay UBCKNN chưa quản lý chặt đến các công ty đại chúng chưa niêm yết. Nhiều công ty đã đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng nhưng chưa đăng ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán, vì thế cũng không thực hiện nghĩa vụ CBTT nhưng khó có cơ sở để kiểm soát được các công ty này. Do đó, cần có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa UBCKNN với cơ quan quản lý doanh nghiệp để các quy định pháp lý có tính thực thi hiệu quả trên thực tế. Bên cạnh đó, TTCK càng phát triển thì phạm vi, đối tượng của hoạt động giám sát, thanh tra trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng mở rộng. Vì thế, đội ngũ cán bộ quản lý của UBCKNN, SGDCK, TTLKCK cũng cần có năng lực để phát hiện những vi phạm hay dấu hiệu bất thường trong giao dịch cũng như trong hoạt động và những gian lận tại Báo cáo tài chính của các công ty.
Nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong tiếp cận, sử dụng thông tin:
Tại nhiều nước trên thế giới, các định chế tài chính, các tổ chức nghiên cứu, phân tích thị trường… được quyền đưa ra những nhận định về tình hình kinh tế cũng như những dự báo tầm xa về động thái điều hành chính sách vĩ mô của Chính phủ cũng như tình hình của các doanh nghiệp. Trên cơ sở những thông tin đa dạng, phong phú và nhiều chiều, nhà đầu tư có nhiều cơ sở tham khảo và tất yếu họ sẽ cẩn trọng, chọn lọc trong việc tiếp nhận thông tin. Ở nước ta thông tin dự báo để cho các nhà đầu tư tham khảo chưa nhiều và cơ sở số liệu đưa ra thông tin đó có tính thuyết phục không cao, nên khi xuất hiện bất cứ một thông tin mà thị trường trông chờ, nhà đầu tư dễ có phản ứng chấp nhận thông tin một cách đơn giản. Thực tế không chỉ đối với thông tin về chứng khoán mà các thông tin
liên quan đến tỷ giá, chính sách vĩ mô… cũng đã tác động không nhỏ đến TTCK. Do đó, để đảm bảo an toàn cho đồng vốn, các quyết định đầu tư cần dựa trên việc tìm hiểu kỹ càng về sức khỏe doanh nghiệp; đồng thời bất kỳ thông tin nào được đưa ra, nhà đầu tư cần xem xét mức độ xác thực của thông tin đó, tránh đầu tư theo số đông.
Ngoài ra, tham gia TTCK Việt Nam hiện nay chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân đầu tư lướt sóng ngắn hạn, họ thường không có lợi thế về thông tin và bản thân nhà đầu tư không thể am tường hoạt động doanh nghiệp, nắm được khối lượng thông tin đồ sộ của cả thị trường như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư…, vì thế họ cũng dễ bị tác động bởi thông tin. Điển hình như sự việc liên quan đến sự việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 tại biển Đông ngày 8/5/2014 vừa qua đã khiến TTCK lao dốc với mức giảm lịch sử (33,01 điểm (5,89%) - mức giảm lớn nhất trong lịch sử từ khi TTCK Việt Nam đi vào hoạt động). Mức giảm điểm này còn lớn hơn cả sự kiện ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt (giảm 4,7%). Tiếp sau đó, ngày 12/05 chỉ số VNIndex tiếp tục giảm 24,61 điểm (4,54%). Tâm lý hoảng loạn của nhà đầu tư đã đưa VNIndex trở thành chỉ số chứng khoán giảm mạnh nhất thế giới (theo Bloomberg) vào thời gian này. Rõ ràng, trong sự việc này nhà đầu tư trong nước đã phản ứng một cách thái quá, không cần thiết. Trong khi đó, trái ngược với nhà đầu tư trong nước, tranh thủ tình trạng “hoảng loạn” trên TTCK, nhà đầu tư nước ngoài liên tiếp mua ròng các cổ phiếu giá rẻ, và kết quả là sau đó, khi nhà đầu tư bình tĩnh trở lại, thị trường tăng điểm thì nhà đầu tư nước ngoài đã thu về một khoảng lợi nhuận không hề nhỏ. Sự việc này cho thấy, tâm lý đám đông vẫn “lấn lướt” trên thị trường. Vì thế, nâng cao ý thức trong tiếp cận, phân tích và sử dụng thông tin với chính bản thân nhà đầu tư là cần thiết, nhằm giảm thiểu những rủi ro do thông tin đem lại cho chính họ. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần có nhiều chính sách thu hút sự tham gia của tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, mà điển hình là các tổ chức tài chính như các quỹ đầu tư, các ngân hàng thương mại…, giúp TTCK hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả hơn. Tái cấu trúc lại cơ sở nhà đầu tư cũng chính là một trong bốn trụ cột nhằm tái cấu trúc TTCK Việt Nam hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
TTCK Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng trước yêu cầu ngày càng cao về tính minh bạch. Đây là cơ sở để thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, là động lực để phát triển thị trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tình trạng thiếu minh bạch thông tin vẫn đã và đang là một tồn tại khá lớn, gây cản trở sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường. Chính vì thế, nâng cao tính công khai, minh bạch của TTCK là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Đối với các công ty đại chúng, công bố thông tin chính là việc công ty tạo lập hình ảnh đối với nhà đầu tư, là trách nhiệm và cũng là cơ hội để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Trên thực tế, hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng đã ngày càng tốt hơn nhưng vẫn còn các tồn tại, vướng mắc mà nguyên nhân của nó bao gồm cả từ phía chính sách pháp luật, hạ tầng công nghệ thông tin và ý thức chủ quan từ phía doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả hoạt động CBTT của công ty đại chúng cần có những phương hướng, giải pháp đồng bộ đặt trong bối cảnh thực trạng TTCK Việt Nam hiện nay như hoàn thiện các quy định hiện hành theo hướng quy định rõ ràng hơn, tiếp thu các kinh nghiệm quốc tế về chính sách công bố thông tin; nâng cao ý thức của công ty đại chúng trong thực hiện CBTT và ý thức tiếp nhận thông tin từ phía nhà đầu tư... Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng nỗ lực minh bạch hóa thị trường không phải chỉ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước mà còn đòi hỏi sự chung tay của các công ty và nhà đầu tư trong việc tuân thủ quy định pháp luật về công bố thông tin một cách có trách nhiệm, bởi lẽ, khung pháp lý hiện nay đã có và điều chỉnh tương đối chặt chẽ nhưng nó là chưa đủ nếu như bản thân các doanh nghiệp không nghiêm túc tuân thủ và bỏ qua trách nhiệm xã hội đối với công chúng đầu tư.
KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán được xem là thị trường của thông tin và minh bạch thông tin chính là động lực cơ bản để phát triển thị trường lành mạnh, bền vững. Với vai trò là chủ thể cung cấp hàng hóa trên TTCK, chế định pháp luật đặc biệt chú trọng đến nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng bởi các thông tin do công ty đại chúng cung cấp là tấm gương phản chiếu tình hình kinh doanh của công ty, là động lực để công ty hoàn thiện chế độ quản trị, phát triển thương hiệu và nâng cao hiệu quả kinh doanh; đồng thời cũng là cơ sở để hình thành giá chứng khoán. Công ty đại chúng CBTT càng minh bạch thì giá chứng khoán càng được phản ánh chính xác, TTCK phát triển bền vững và quyền lợi của nhà đầu tư càng được đảm bảo.
Do vai trò quan trọng của vấn đề công khai, minh bạch thông tin trên TTCK nên ngay từ những ngày đầu hình thành thị trường, chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin đã được chú trọng. Hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động CBTT trên TTCK đã song hành cùng các bước phát triển của thị trường. Tại các văn bản đầu tiên như Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 thay thế Nghị định số 44/1998//NĐ-CP về chứng khoán và TTCK, Thông tư số 57/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 hướng dẫn CBTT trên TTCK, nghĩa vụ CBTT của các công ty niêm yết đã được quy định chi tiết. Năm 2006, một nội dung quan trọng đã được Luật hóa, đó là việc đưa khái niệm “công ty đại chúng” vào Luật Chứng khoán và yêu cầu các công ty này cũng phải thực hiện nghĩa vụ CBTT (trong khi nghĩa vụ CBTT trước đó vốn chỉ dành cho các công ty niêm yết). Từ khi ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC hướng dẫn CBTT trên TTCK để cụ thể hóa các quy định tại Luật Chứng khoán cho đến nay, nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng ngày càng được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ hơn, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho đông đảo nhà đầu tư. Hiện nay, nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng được quy định cụ thể tại
Thông tư 52/2012/TT-BTC. Các quy định hiện hành được đánh giá là khá đầy đủ và tiệm cận thông lệ quốc tế cả về loại thông tin cần công bố, cách thức và thời hạn CBTT. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật CBTT của công ty đại chúng cho thấy, mặc dù Thông tư 52/2012/TT-BTC mới được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2012 nhưng đã có những tồn tại về kỹ thuật pháp lý cũng như nhiều nội dung quy định còn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho các công ty trong quá trình thực thi nghĩa vụ công khai thông tin; mặt khác cũng cần bổ sung, sửa đổi một số quy định để phù hợp với yêu cầu phát triển TTCK gắn với hội nhập hiện nay (như yêu cầu công ty niêm yết CBTT bằng tiếng Anh hoặc việc lập Báo cáo tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế…). Do đó, việc hoàn thiện các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty đại chúng là hết sức cần thiết.
Ngoài ra, thực tế cho thấy có đến khoảng 70% các công ty niêm yết vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin và bị nhắc nhở bằng văn bản từ các SGDCK, trong đó nhiều vi phạm liên quan đến CBTT các Báo cáo tài chính, chưa kể đến chất lượng các BCTC của các công ty đại chúng cũng không đảm bảo độ trung thực. Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về CBTT của công ty đại chúng cần các giải pháp tổng thể như nâng cao năng lực, khả năng giám sát của cơ quan quản lý; hoàn thiện hệ thống CBTT; nâng cao ý thức CBTT của công ty đại chúng và năng lực tiếp nhận, đánh giá thông tin của nhà đầu tư; xây dựng bộ chỉ số minh bạch thông tin cho các công ty niêm yết; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, đào tạo về chứng khoán và TTCK… Các giải pháp này sẽ giúp công ty đại chúng nói riêng và TTCK nói chung công khai, minh bạch hơn, từ đó xây dựng được hình ảnh và nâng cao vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Đây chính là động lực giúp TTCK phát triển, trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn, thu hút đông đảo nhà đầu tư trong và ngoài nước; đồng thời khẳng định được vai trò là kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả cho nền kinh tế.