Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay - 8

Theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2004. Liên quan tới thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và các tranh chấp về QSHTT nói riêng tại TAND có bốn nghị quyết: Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP ngày 31-3-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005); Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 02/2005); Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS năm 2004 về "Chứng minh và chứng cứ" (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 04/2005); Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8- 2006 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm" của BLTTDS (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 05/2005).

Theo quy định của BLTTDS, Luật SHTT thì thủ tục bảo vệ QSHTT theo tố tụng dân sự như sau:

* Khởi kiện, thụ lý vụ án:


Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức (chủ sở hữu QSHTT) có quyền làm đơn khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ. Theo tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 162 của BLTTDS thì Cục SHTT (Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa - Thông tin), Vụ khoa học, công nghệ và chất lượng sản phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách liên quan đến SHTT. Đơn khởi kiện phải có nội dung quy định tại Điều 164 của BLTTDS. Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Toà án nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào Sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:

tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trong trường hợp xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.

Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày; người được thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện. Đối với việc nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, Tòa án cần lưu ý: một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 203 (khoản 1) của Luật SHTT: "Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại điều này" [64]. Quy định này là cụ thể hóa quy định chung về nghĩa vụ chứng minh tại khoản 1 Điều 79 của BLTTDS, theo đó, "đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ớch hợp phỏp của mỡnh phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp" [61].

- Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT, để chứng minh mỡnh là chủ thể QSHTT, nguyờn đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ sau đây: Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc gia về QTG, quyền liờn quan,

Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về giống cây trồng được bảo hộ; chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG, quyền liên quan trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng. Ngoài ra, nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHTT hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh (khoản 3 Điều 203 của Luật SHTT).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

- Đối với bị đơn: Khoản 2 Điều 79 của BLTTDS quy định: "Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mỡnh phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh" [53]. Phù hợp với yêu cầu này, khoản 4 Điều 203 của Luật SHTT quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy trỡnh sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mỡnh được sản xuất theo một quy trỡnh khỏc với quy trỡnh được bảo hộ trong các trường hợp sau đây: sản phẩm được sản xuất theo quy trỡnh được bảo hộ là sản phẩm mới; sản phẩm được sản xuất theo quy trỡnh được bảo hộ không phải là sản phẩm mới nhưng chủ sở hữu sáng chế cho rằng sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy trỡnh được bảo hộ và mặc dù đó sử dụng cỏc biện phỏp thớch hợp nhưng vẫn không thể xác định được quy trỡnh do bị đơn sử dụng.

Tại khoản 5 Điều 203 của Luật SHTT quy định: "Trong trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm QSHTT chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mỡnh bị bờn kia kiểm soỏt do đó không thể tiếp cận được thỡ cú quyền yờn cầu Toà ỏn buộc bờn kiểm soỏt chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó" [64]. Có thể nói, quy định này là sự "nội luật hoá" quy định của khoản 1 Điều 43 của Hiệp định TRIPs:

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay - 8

Cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia rằng khi một bên trong vụ kiện đó đưa ra những chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mỡnh đang do phía bên kia kiểm soát, thỡ cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra những chứng cứ đó [35].

Ngoài ra, một trong cỏc quyền và nghĩa vụ quan trọng của chủ sở hữu quyền cũn là: "Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thỡ nguyờn đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đó xảy ra và nờu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của luật này (khoản 6 Điều 203 của Luật SHTT) [64].

Về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT: Hiệp định TRIPs yêu cầu các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên vi phạm đền bù cho chủ thể quyền một cách thích đáng, đủ bù lại những thiệt hại mà chủ thể quyền đó phải chịu (khoản 1 Điều 45), ngoài ra bắt buộc người vi phạm quyền phải trả cho chủ thể quyền các chi phí cuả chủ thể quyền, và trong các trường hợp thích hợp, các nước thành viên có thể cho phép các cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi các khoản lợi nhuận và/ hoặc trả các khoản đền bù thiệt hại ấn định trước, kể cả trong trường hợp người xâm phạm không biết hoặc không có căn cứ để biết hành vi xâm phạm (khoản 2 Điều 45).

Việc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT được quy định tại Điều 204 của Luật SHTT gồm có: thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể QSHTT phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.

Trên tinh thần các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại của BLDS, các căn cứ để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm QSHTT được Luật SHTT quy định là trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt hại về vật chất cho mỡnh thỡ cú quyền yờu cầu Toà ỏn quyết định mức bồi thường, theo một trong các căn cứ: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đó thu được do thực hiện hành vi xâm phạm QSHTT, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất; giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đó thực hiện; trong trường hợp không thể xác

định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thỡ mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt hại về tinh thần cho mỡnh thỡ cú quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại. Ngoài bồi thường thiệt hại, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư" (Điều 205).

* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:


Thông thường khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHTT thường muốn có ngay được những biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là phải có hành động nhằm chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền. Hiệp định TRIPs đặt nghĩa vụ cho các nước thành viên phải ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ QSHTT nào và lưu giữ những chứng cứ có liên quan đến hành vi bị coi là vi phạm; trong trường hợp mà bất kỳ có sự chậm trễ nào cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc khi có những nguy cơ rõ ràng rằng các chứng cứ đang bị phá huỷ (khoản 2 Điều 50). Tại Điều 13 chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ yêu cầu Toà án phải được phép ra "lệnh áp dụng các BPKCTT một cách có hiệu quả và ngay lập tức" để ngăn chặn nguy cơ xâm phạm các QSHTT và bảo vệ chứng cứ liên quan. Đáp ứng yêu cầu này, Điều 206 của Luật SHTT quy định khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp: đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời. Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp đó. Điều 207 của Luật SHTT quy định các BPKCTT, bao gồm: thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm chuyển dịch quyền sở hữu. Như vậy, theo quy định tại BLTTDS năm 2004 và Luật SHTT, thì chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, cần lưu ý quy

định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT: "Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể QSHTT quy định tại khoản 1 Điều này trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp đó" [64]. Đây là quy định được đánh giá mang rừ tớnh chất đặc thù của việc áp dụng BPKCTT trong vụ án liên quan đến QSHTT.

Trong trường hợp yêu cầu áp dụng lệnh BPKCTT đó là không đúng, gây thiệt hại cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh, thỡ người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại, Hiệp định TRIPs gọi đó là "bồi thường cho bị đơn". Hiệp định TRIPs quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên đó lạm dụng cỏc thủ tục thực thi quyền phải bồi thường thoả đáng cho bên bị thiệt hại (khoản 1 Điều 48). Tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA quy định: "Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mỡnh được yêu cầu người nộp đơn phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng" [39], phù hợp yêu cầu này, theo khoản 4 Điều 117 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 của Nghị quyết số 02/2005, thỡ chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện... Tại Điều 208 của Luật SHTT quy định về nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng BPKCTT như sau: người yêu cầu áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ chứng minh quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 206 của luật này bằng các tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của luật này; người yêu cầu áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hỡnh thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lónh của ngõn hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại xảy ra, bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần...

Theo quy định tại Điều 209 của Luật SHTT thỡ Toà án ra quyết định huỷ bỏ BPKCTT đó được áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 của BLTTDS (đó là các trường hợp: người yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ; người

phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; nghĩa vụ dân sự của có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của BLDS) và trong trường hợp người bị áp dụng BPKCTT chứng minh được việc áp dụng BPKCTT là không có căn cứ xác đáng. Trong trường hợp huỷ bỏ BPKCTT, Toà án phải xem xét để trả lại cho người yêu cầu áp dụng BPKCTT khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 208 của luật này. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không có căn cứ xác đáng và gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT thỡ Toà ỏn buộc người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại. Về thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT thực hiện như đó trỡnh bày ở tiết b tiểu mục 2.1.1.2 chương 2 của luận văn.

* Hũa giải:


Khác với thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, xét xử các vụ án hỡnh sự là Tũa án không tiến hành hũa giải, thỡ trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hũa giải là một nguyên tắc bắt buộc. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tũa án tiến hành hũa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những trường hợp không được hũa giải hoặc không thể tiến hành hũa giải được. Có thể nói, trong quá trỡnh giải quyết các tranh chấp về SHTT, hũa giải để các bên thỏa thuận được với nhau sẽ đem lại được những lợi ích to lớn. Khi các bên tranh chấp thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án, Tũa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành; do đó, các bên không phải mất nhiều thời gian, tiền bạc cho công việc tố tụng. Trong một chừng mực nào đó, QSHTT được bảo đảm bí mật, những xâm phạm SHTT được ngăn chặn kịp thời và hậu quả của việc xâm phạm được khắc phục.

* Chuẩn bị xét xử vụ án:


Điều 179 của BLTTDS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định: công nhận sự thoả thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết vụ án;

đình chỉ giải quyết vụ án; đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội dung chính quy định tại Điều 195 của BLTTDS.

* Xét xử sơ thẩm vụ án:


Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà (trong trường hợp phải hoãn phiên toà). Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án (trong trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà). Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà. Thủ tục hỏi tại phiên toà, tranh luận tại phiên toà, nghị án và tuyên án được thực hiện theo quy định tại các mục 3, 4 và mục 5 chương XIV Phần thứ hai của BLTTDS. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của Toà án, phần quyết định. Nội dung bản án được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và khoản 5 Điều 238 của BLTTDS.

* Xét xử phúc thẩm đối với vụ án:


Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính theo quy định tại Điều 244 của BLTTDS.

- Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng cáo đối với

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí