Những Tồn Tại, Hạn Chế Của Quá Trình Cph Dnnn

các bộ phận sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

CPH tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ trong doanh nghiệp; thông qua CPH, một bộ phận quan trọng người lao động ở DNNN CPH trở thành cổ đông, là người chủ thực sự phần vốn góp của mình, có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc thẩm quyền Đại hội đồng cổ đông; góp phần thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện để người lao động có cổ phần và tham gia quản lý doanh nghiệp đã được thể chế hoá tại Điều 11 bộ luật Lao động.

Việc kiểm tra, giám sát của người lao động - cổ đông và xã hội đối với CTCP, nhất là công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, là biện pháp có hiệu quả làm cho tài chính của CTCP được minh bạch, công khai, cùng với những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách thực chất hơn.

CPH góp phần đẩy nhanh chương trình cải cách hành chính, tiến tới xoá bỏ cơ chế hành chính chủ quản. Việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước trong các DNNN đã CPH từ các bộ, ngành địa phương về các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước đã tách bạch rò ràng hơn vai trò của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong việc thực hiện quyền chủ sở hữu và quản lý nhà nước. Đến nay, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước đã tiếp nhận việc giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 526 doanh nghiệp CPH từ các bộ, ngành địa phương với tổng số vốn nhà nước là 3.651 tỷ đồng và đang tiếp tục thực hiện việc chuyển giao này theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Thông qua CPH góp phần tập trung vốn của Nhà nước (sau CPH) vào các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, đã phần nào khắc phục tình trạng vốn Nhà nước đầu tư từ chỗ dàn trải, phân tán vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sang đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào những lĩnh vực, ngành nghề then chốt của nền kinh tế.

CPH đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp . Nhìn chung các doanh nghiệp sau CPH hoạt động có hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có hiệu quả; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình quân 6,6%; cổ tức bình quân đạt17,11%.

Tóm lại: CPH DNNN được thực hiện thận trọng theo đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra.

1.2.4. Những tồn tại, hạn chế của quá trình CPH DNNN

Tiến độ CPH chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Tuy đạt được những kết quả đáng ghi nhận nêu trên nhưng so với yêu cầu và mục tiêu của Nghị quyết TW3, TW9 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội X của Đảng thì việc sắp xếp, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp mà trọng tâm là CPH DNNN vẫn còn chậm, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Việc xác định giá trị tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, sơ hở; giá trị doanh nghiệp chưa được tính đúng và thống nhất; giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh, nguồn nhân lực tại doanh nghiệp chưa được xem xét đánh giá đầy đủ và nhất là chưa xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

đưa vào giá trị doanh nghiệp khi CPH đã làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, làm lợi cho một số người, tạo nên bức xúc cho xã hội.

Các hoạt động bổ trợ cho quá trình CPH doanh nghiệp (kiểm toán, tư vấn, các định chế tài chính trung gian, thị trường chứng khoán…) chưa được quan tâm phát triển đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; doanh nghiệp CPH chưa được thực sự chủ động lựa chọn đơn vị tư vấn, xác định giá trị tài sản, xây dựng phương án CPH, phương án phát triển doanh nghiệp sau CPH.

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công thương - 5

Mục tiêu thu hút các nguồn vốn xã hội vào sản xuất, kinh doanh khi CPH DNNN đạt được còn thấp.

CPH chưa thực hiện tốt mục tiêu tạo sự gắn bó, phát huy tính thần làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp.

Cơ chế quản lý đối với DNNN sau CPH, nhất là với những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 51% cổ phần còn nhiều điều chưa rò, chưa phù hợp.

Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH còn nhiều bất cập.

Hiện đang có tình trạng chưa phân định rò và nhận thức đúng về người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà nước tại CTCP.

Sau CPH, ở hầu hết các doanh nghiệp, hoạt động của các tổ chức Đảng và đoàn thể đều gặp khó khăn - nhất là ở các doanh nghiệp mà nhà nước không giữ cổ phần chi phối.

1.3. KINH NGHIỆM CPH DNNN CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á

1.3.1. Hàn Quốc

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, CPH các DNNN ở Hàn Quốc đã được thực hiện. Đến nay, Hàn Quốc đã CPH được 35 DNNN có quy mô lớn và hàng trăm DNNN có quy mô vừa và nhỏ. Trong số các DNNN quy mô lớn có các doanh nghiệp điển hình như: hãng Hàng không quốc gia, công ty gang thép In Chon, PoHang, Công ty điện lực, Công ty độc quyền sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thuốc vị sâm nhung, Ngân hàng thương mại Hàn Quốc…

Riêng năm 1978, chính phủ Hàn Quốc đã bán 68% cổ phần cho 25 hãng buôn, thu được 167 triệu USD. CPH cũng được thực hiện thông qua bán cổ phiếu ở các sở giao dịch chứng khoán, trong đó vừa bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư bình thường, vừa bán cổ phiếu cho công chúng có thu nhập thấp. Ví dụ: Công ty gang thép Po Hang đã bán lượng cổ phiếu chiếm 4,1% cổ phần cho công chúng có thu nhập thấp. Quá trình CPH các DNNN ở Hàn Quốc ngoài những nét chung thì còn có một số những đặc điểm mang tính đặc thù sau:

Thứ nhất, CPH các DNNN đã tiến hành rất thận trọng. Điều đó được thể hiện ở cách thức triển khai CPH thông qua tiến hành thí điểm ở một số doanh nghiệp. Từ thí điểm Hàn Quốc tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm sau đó mới mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Điều đó còn thể hiện ở tốc độ CPH khá chậm. Qua 3 đợt CPH: đợt 1 từ 1960-1973, đợt 2 từ 1974-1983 và đợt 3 từ 1984 đến nay số lượng các DNNN quy mô lớn được CPH chỉ có 35 doanh nghiệp. Tuy nhiên, CPH lại tập trung vào các doanh nghiệp quy mô lớn và giữ vị trí độc quyền, hoạt động trên phạm vi cả nước.

Thứ hai, mục tiêu CPH không chỉ thu hút vốn, giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước … mà còn nhằm phân phối giá trị tài sản của các DNNN cho quần chúng có thu nhập thấp và giảm bớt sự mất công bằng xã hội. Để thực hiện mục tiêu này, Hàn Quốc có những phương thức triển khai bán cổ phiếu đặc biệt, với việc phân chia cổ phiếu bán ra cho người cần ưu đãi. Cụ thể: Người lao động hiện đang làm việc trong DNNN và người nghèo được mua 20% giá trị cổ phiếu bán ra. Cổ phiếu ưu đãi được bán thấp hơn giá trị, trong đó người nghèo được mua với giá bằng 30% giá trị cổ phiếu bán ra, người về hưu được mua với giá bằng 75% giá trị cổ phiếu bán ra. Với chính sách ưu đãi của Chính phủ Hàn Quốc, các vấn đề xã hội của CPH nảy sinh đã được giải quyết.

1.3.2. Singapo

CPH DNNN ở Singapo được bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài 10 năm thì cơ bản hoàn thành. Việc thực hiện CPH các DNNN ở Singapo khá bài bản với việc thành lập Uỷ ban CPH khu vực kinh tế nhà nước, xây dựng chương trình CPH hoàn chỉnh và hệ thống, phù hợp với điều kiện của đất nước. Singapo cũng tiến hành thí điểm CPH các DNNN đang làm ăn có lãi ở một số lĩnh vực, sau đó tổng kết, cuối cùng triển khai rộng sang các DNNN ở các lĩnh vực khác. Mục tiêu CPH các DNNN ở Singapo khá đa dạng, trong đó mục tiêu cơ bản là hạn chế sự độc quyền của các DNNN ở một số lĩnh vực, chấm dứt kiểu cạnh tranh không trung thực, cạnh tranh hình thức của các DNNN. CPH DNNN không để xảy ra thâm hụt ngân sách và vẫn duy trì tích luỹ ở mức độ cao.

Trên thực tế, sau những bước triển khai có tính vĩ mô, tháng 6/1989 trong số 15 DNNN đăng ký CPH đã có 6 DNNN đăng ký bán 100% vốn cổ phần của nhà nước. Các hãng còn lại thực hiện bán một phần cổ phần sở hữu của nhà nước như hãng Hàng không quốc gia Singapo giảm phần vốn của nhà nước từ 61% xuống còn 56%, công ty vận tải Neptune giảm từ 74% xuống còn 54%, Ngân hàng Singapo vốn của nhà nước từ 48% còn 44%. Đến năm 1996, chương trình CPH các DNNN đã cơ bản được hoàn thành, sớm hơn dự kiến 2-3 năm. Kết quả của CPH cũng rất khả quan. Nhờ CPH các DNNN ở những ngành, lĩnh vực không then chốt, những ngành có khả năng thu lợi nhuận cao, chính phủ Singapo có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực mang tính chiến lược, những nơi tư nhân không đầu tư vì lợi nhuận thấp. Vai trò của các DNNN còn lại có điều kiện phát huy tác dụng, các DNNN này trở thành công cụ kinh tế vĩ mô để cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển nền kinh tế quốc gia.

1.3.3. Malayxia

Quá trình CPH các DNNN ở Malayxia được bắt đầu từ năm 1983. Lý do và mục tiêu CPH các DNNN của Malayxia có nhiều điểm giống Việt Nam,

chủ yếu do sự mở rộng quá mức khu vực kinh tế nhà nước, gây ra sự mất cân đối kinh tế vĩ mô làm cho thâm hụt ngân sách lớn.

Việc CPH các DNNN ở Malayxia được chia thành 3 bước: Tiến hành thương mại hoá doanh nghiệp; Chuyển các DNNN hoạt động theo luật công ty; Xây dựng các DNNN đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định thành những tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Việc tiến hành CPH, đặc biệt việc phát hành cổ phiếu cũng có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, sản xuất theo hướng xuất khẩu. Mức cổ phần tối đa bán cho các nhà đầu tư nước ngoài là 25%, với mục đích để các nhà đầu tư nước ngoài không gây ảnh hưởng quá lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Kết quả CPH các DNNN ở Malayxia là khá to lớn. Việc chuyển một phần các DNNN thành CTCP đã giảm bớt gánh nặng của nhà nước đối với doanh nghiệp. Đã chuyển 96.000 công nhân thuộc các DNNN sang các công ty cổ phần, bán cổ phần được 6 tỷ USD, thu hút thêm 35,5 tỷ USD ở 24 công ty cổ phần từ các DNNN sau CPH. Số tiền nhà nước thu được đã sử dụng cho các hoạt động khác 2 tỷ USD, chuyển giao 374 công trình cho tư nhân. Số tiền các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sau CPH đã giúp các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

1.3.4. Trung Quốc

Trong quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, Trung Quốc là một trong các nước sớm nhận thấy những hạn chế của các DNNN như: hiệu quả kinh tế thấp hơn các loại hình kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp ở tình trạng thua lỗ và tình trạng này có xu hướng ngày càng tăng; tình trạng thất thoát tài sản nhà nước ngày càng tăng và trở nên nghiêm trọng; máy móc thiết bị nói riêng, trình độ công nghệ nói chung của các DNNN rất thấp, lạc hậu rất nhiều so với các nước phát triển; các DNNN ngoài chức năng kinh tế còn phải đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội. Hệ

thống các DNNN quá lớn với khoảng 348.000 doanh nghiệp. Tình trạng trên dẫn đến gánh nặng nợ nần của các DNNN ngày càng lớn làm ngân sách nhà nước phải chịu, trong khi đó nguồn ngân sách nhà nước có hạn và cần chi dùng cho nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội khác. Trung Quốc cũng sớm nhận thấy con đường thoát khỏi khó khăn do các DNNN mang lại là mở cửa nền kinh tế, đổi mới hệ thống DNNN, chuyển một bộ phận DNNN thành các công ty cổ phần qua việc tiến hành CPH các DNNN. Việc tiến hành CPH các DNNN ở Trung Quốc được tiến hành khá khoa học. Bởi vì, nó được thực hiện theo một lộ trình tuân thủ các vấn đề mang tính lý thuyết và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực. Việc triển khai cũng được tiến hành thí điểm trên phạm vi hẹp sau đó rút kinh nghiệm để các đơn vị ở các cấp, các ngành nghiên cứu học tập. Cuối cùng, CPH các DNNN mới được triển khai trên phạm vi rộng. Điều đặc biệt của Trung Quốc so với các nước khi tiến hành CPH các DNNN là vai trò của nhà nước trong xây dựng kế hoạch, lộ trình và sử dụng các biện pháp mạnh của quản lý hành chính nên kết quả của CPH các DNNN đạt được rất cao.

Trong những năm 1991-1995 đã có tới 13.500 doanh nghiệp đã CPH xong. Việc CPH xong một khối lượng lớn các DNNN đã tạo cho chính phủ một nguồn thu ngân sách khá lớn. Chỉ tính 700 doanh nghiệp bán cổ phiếu trên thị trường đã thu được 500 tỷ nhân dân tệ, bằng 7,3% GDP của Trung Quốc năm 1996. Với 97 công ty bán cổ phiếu loại B ra thị trường trong nước và 38 công ty bán cổ phiếu ra thị trường nước ngoài đã thu được 13 tỷ USD. Nhà nước đã sử dụng nguồn vốn quan trọng này vào các dự án cải tạo và đầu tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế đất nước. Gánh nặng đối với các DNNN sau khi CPH đã được loại bỏ, tạo thêm được 10.000 việc làm mới trên thị trường chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ phiếu – một lượng tiền lớn trong dân cư đã được thu hút vào các hoạt động kinh doanh của các DNNN khi CPH.

CPH đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chuyển đổi quản lý, chuyển đổi hướng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Sở hữu nhà nước đã chuyển sang các hình thức sở hữu khác, những lý do để nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp không còn. Công ty cổ phần có điều kiện phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, những yêu cầu tối cần thiết của doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.

Sau CPH, các doanh nghiệp đã có điều kiện tổ chức lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, năng động. Chỉ riêng Tập đoàn ôtô số 1 sau CPH năm 1996, đến năm 2007 đã giảm được 12.000 người, 200 đơn vị trong cơ cấu tổ chức.

Theo cơ chế hoạt động của các CTCP, các DNNN sau khi CPH không chỉ tuân thủ luật kinh doanh và các chính sách của chính phủ mà còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông mà đại diện là Hội đồng quản trị. Sức ép đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có những đổi mới trong quản lý và hoạt động kinh doanh. Phải trực tiếp tìm hiểu thị trường, chấp nhận và chủ động trong cạnh tranh, tự tìm cách tồn tại và phát triển khi không còn sự nâng đỡ của nhà nước, khi được quyền chủ động. Doanh nghiệp đã năng động hơn, thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định về kinh doanh.

Từ những đổi mới trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sau CPH đã mạnh lên. CPH đã tạo ra những điều kiện để Trung Quốc thực hiện chiến lược xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế của nước ngoài. Hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp sau CPH đã nâng cao vị thế của nhà nước khi nắm cổ phần chi phối trong doanh nghiệp. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước từng bước được phát huy. Tuy nhiên để khống chế được các cổ phiếu trong các CTCP, nhà nước phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát hợp lý… Muốn làm được điều đó, đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách hợp lý, năng lực quản lý của Nhà nước phải nâng lên.

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 03/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí