Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 11


Cần dành ưu tiên hơn cho đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực như:

- Trong những ngành nghề, lĩnh vực có sự cạnh tranh mãnh liệt với kinh tế khu vực và thế giới, có nhu cầu về vốn để hiện đại hoá thiết bị, đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý và mở rộng thị trường ngoài nư- ớc như: Dệt may, giấy, da giầy, chế biến hàng nông sản, thuỷ sản...

- Trong những ngành công nghệ tiên tiến, hoặc những ngành nghề mới yêu cầu chất lượng cao nhu: sản xuất thiết bị điện tử, tin học,

- Trong các ngành nghề có nhu cầu vốn lớn, khả năng sinh lời chưa cao như các ngành giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc các dự án BOT, BT...

- Thực hiện bán cổ phiếu không giới hạn số lượng ngoài phần bán nội bộ cho các nhà đầu tư nước ngoài ở những DNNN không cần thiết phải nắm giữ cổ phần; gặp khó khăn trong việc phát hành cổ phiếu. Kịp thời cung cấp thông tin, tổ chức bán đấu giá cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các công ty Tài chính, thị trường chứng khoán... để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu huy động vốn hoặc đổi mới phương thức quản lý.

8. Việc phân bổ và bán cổ phiếu

Xác định mức độ Nhà nước nắm cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp CPH theo hướng thu hẹp lĩnh vực Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cho CPH hết vốn Nhà nước ở những doanh nghiệp hiện Nhà nước còn vốn góp nhưng dưới mức 50% tổng vốn điều lệ. Hiện nay, vốn cổ phần chi phối của Nhà nước cũng đang gây ra cho Doanh nghiệp một số khó khăn trong quản lý điều hành, khó thống nhất về quyền lợi giữa các cổ đông và sự can thiệp quá sâu của cơ quan Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh donah của doanh nghiệp sau CPH.


Việc phân bổ cổ phiếu một cách khoa học, hợp lý làm cơ sở cho hoạt động phát hành là hết sức cần thiết, tạo sự bình đẳng cho các cổ đông, đồng thời khuyến khích các thành phần tích cực tham gia mua cổ phiếu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Đối với cán bộ quản lý trong doanh nghiệp: Nhằm mang lại quyền lợi và trách nhiệm của họ cho DN , cần xác định mức cao hơn người lao động khác, một khi nhu cầu mua cổ phiếu trong nội bộ vượt quá số cổ phiếu phát hành. Cán bộ lãnh đạo với số cổ phiếu vượt trội sẽ quan tâm hơn đến công việc hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Mức cao hơn có thể là 30% so với người lao động khác. Mức này chỉ áp dụng đối với cổ phiếu thường, không áp dụng đối với cổ phiếu ưu đãi.

Đối với các nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm đầu vào, cũng như các đại lý và các nhà phân phối sản phẩm đầu ra cho doanh nghiệp. Có thể dành cho họ 15% giá trị phần vốn Nhà nước tại DN, trong đó 50% cổ phiếu được bán đúng mệnh giá và 50% còn lại bán với giá ưu đãi, giảm 30% so với mệnh giá. Sự ưu ái này chỉ nên áp dụng đối với các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào và tiêu thụ chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đến DN.

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 11

Đối với những nhà đầu tư cổ phiếu bên ngoài DN, cần thực hiện bán đấu giá, song giảm giá thắng đấu giá cho người lao động cùng cơ quản chủ quản với mức 20%

Việc bán cổ phiếu được phân thành 2 giai đoạn :

Phát hành cổ phiếu lần đầu: Việc phát hành cổ phiếu DNNN sẽ được giao cho Công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ, tài sản của doanh nghiệp hoặc Quỹ sắp xếp DNNN đảm nhận theo phương thức: Cổ phiếu ưu đãi hoặc mua theo quyền ưu tiên mua cổ phần thì thực hiện phát hành theo đăng ký của DN. Đối với các loại cổ phiếu khác thì thực hiện đấu giá hoặc đấu thầu theo những điều kiện nhất định.

Phát hành các lần sau và các hoạt động mua bán cổ phiếu. Việc phát hành cổ phiếu các lần sau của DN chịu sự quản lý thống nhất của quy phạm


pháp luật của Chính phủ về phát hành trái phiếu, cổ phiếu: Các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì thực hiện việc phát hành và mua bán chứng khoán thông qua các công ty chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán. Với những DN chưa đủ điều kiện niêm yết do Việt Nam chưa hình thành thị trường thứ cấp nên việc mua bán, phát hành thêm cổ phiếu sẽ được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu hoặc hệ thống Quỹ sắp xếp DNNN.

9. Xoá bỏ sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ công ty.

Xoá bỏ sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động nội bộ của công ty cổ phần, mọi sự can thiệp phải thông qua người trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước trong các công ty cổ phần.

Công tác tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm về CPH ở các đơn vị đã tiến hành CPH.

Tổng kết rút kinh nghiệm làm bài học thực tiễn về công tác CPH từ các đơn vị đã tiến hành CPH cho các đơn vị làm sau là một việc làm không thể nào thiếu được, bởi lẽ CPH Doanh nghiệp là một công việc hết sức mới mẻ đối với các Doanh nghiệp và đối với mỗi người chúng ta.

Việc duy trì quá lâu cơ chế bao cấp từ việc cung ứng vật tư, lao động, tiền vốn, tiêu thụ sản phẩm..... Kể cả lỗ lãi của công ty đã gây ra tâm lý "ỷ lại" cấp trên, ỷ lại Nhà nước. Không có sự chủ động, năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, không có tính quyết đáp những phương sách cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp khi bước vào cơ chế thị trường, nhất là bước đầu tiếp cận làm ăn với các Doanh nghiệp nước ngoài.

Ví dụ như, chọn một Doanh nghiệp để làm CPH thì nên chọn một đơn vị như thế nào? Quy mô và tổ chức ra làm sao? Thuộc lĩnh vực gì? Tình hình sản xuất hiện tại như thế nào? Mặt hàng sản xuất ra trong tương lai ra sao? Khi đã chọn được đơn vị để CPH rồi thì các bước tiếp theo như thế nào? Theo quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần phải trải qua 4 bước":


- Bước 1: Chuẩn bị CPH, thì chuẩn bị những vấn đề gì? Các công việc cần chuẩn bị ra sao? Chuẩn bị như thế nào? Tốt, xấu, cái gì cần phát huy? Cái gì cần khắc phục?

- Bước 2: Xây dựng phương án CPH Doanh nghiệp, bộ phận Doanh nghiệp bao gồm những công việc gì? Các bước tiến hành ra sao? Tiến độ như thế nào?

- Bước 3: Duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH

- Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh.

Như vậy để cho tiến trình CPH DNNN đạt được kết quả, thực hiện thành công mục tiêu kế hoạch mà Đảng và Nhà nước đề ra trong công cuộc đổi mới quản lý DNNN, trong sự nghiệp đổi mới đất nước thì công tác tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm về công tác CPH DNNN là việc làm không thể thiếu. Chỉ có như thế thì mới giúp cho Doanh nghiệp chủ động, tự tin, sáng tạo, tiến hành công tác CPH đảm bảo chất lượng, hiệu quả và rút ngắn được thời gian CPH.

10. Khen thưởng, động viên khuyến khích đối với những Bộ, Địa phương, Tổng công ty 91 làm tốt công tác CPH.

CPH DNNN là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là một công việc hoàn toàn mới mẻ, cũng có nhiều khó khăn phức tạp trong công việc nghiệp vụ chuyên môn và trong nhận thức chính trị tư tưởng của cán bộ, công nhân viên. Là một công cuộc đổi mới, cho nên để tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình CPH các Doanh nghiệp đạt được kết quả tốt và đảm bảo tiến độ, hiệu quả; nên chăng Nhà nước cần có biện pháp khen thưởng động viên các Doanh nghiệp, Bộ, địa phương và các Tổng công ty 91 làm tốt công tác CPH.

Khen thưởng, biểu dương là công việc tiếp theo của công tác tổng kết rút bài học kinh nghiệm về CPH Doanh nghiệp. Bởi vì nếu làm được điều đó cũng có nghĩa rằng ta làm tốt về công tác thông tin, quảng cáo những người


tốt, việc tốt, đơn vị tốt, ngành và địa phương làm tốt chủ chương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng từ đó mà các Doanh nghiệp, các địa phương, các ngành còn đang lừng chừng do dự sẽ yên tâm và quyết tâm hơn đối với công việc của họ mà mạnh dạn đẩy nhanh tiến độ CPH theo kế hoạch mà họ đã định, đã có kế hoạch đi đến thành công và thắng lợi.

11. Đề xuất một số giải pháp sửa đổi nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 để phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất là các quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2005.

Bổ sung thêm đối tượng CPH là các công ty TNHH Nhà nước một thành viên; Tổng công ty, công ty nhà nước độc lập là công ty mẹ được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; Công ty TNHH Nhà nước hai thành viên.

Theo quy định tại Nghị định 187 thì chỉ CPH những đơn vị còn vốn nhà nước. Nhưng thực tế cho thấy có DNNN sau khi được xử lý các tồn tại về tài chính và thực hiện một số giải pháp cơ cấu lại, nếu có hướng phát triển tốt thì mặc dù không còn vốn nhưng vẫn CPH được và vẫn thu hồi được một giá trị nhất định sau khi tổ chức đấu giá bán cổ phần. Do đó, cần có sửa đổi để cho phép CPH cả doanh nghiệp loại này.

Khuyến khích và tạo điều kiện hơn cho các nhà đầu tư chiến lược góp vốn mua cổ phần và tham gia quản lý doanh nghiệp, đảm bảo điều kiện về số lượng cổ đông đại chúng khi tham gia thị trường chứng khoán

Phương thức bán cổ phần lần đầu nên được mở rộng hơn. có thể thêm các hình thức khác như bảo lãnh phát hành, bán thoả thuận trực tiếp.

Xem xét lại quy định nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước mà mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời xem xét cơ chế ưu đãi giảm giá bán cổ phần 20%.

Việc quy định nhà đầu tư chiến lược là nhà đầy tư trong nước không còn phủ hợp. Quy định này còn phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà


đầu tư nước ngoài; chưa khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào doanh nghiệp CPH. Hơn nữa, thực tế triển khai có những đơn vị đã xác định nhà đầu tư chiến lược là người lao động trong doanh nghiệp và các doanh nghiệp thành viên trong nội bộ của Tổng công ty làm hạn chế khả năng huy động vốn trong xã hội, thay đổi phương thức quản lý.

Bên cạnh đó, việc quy định giảm giá 20% bán cổ phần cho nhà đầu tư tiềm năng là không cần thiết vì các nhà đầu tư tiềm năng đều có tiềm lực về tài chính, họ góp vốn mua cổ phần với kỳ vọng tham gia quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, họ cần được ưu đãi quyền mua cổ phần hơn là ưu đãi giảm giá. Ngoài ra, cung cần lưu ý là thời gian tới sẽ CPH các doanh nghiệp lớn, nếu tiếp tục giảm giá bán cho nhà đầu tư chiến lược thì số tiền ưu đãi giảm giá sẽ rất lớn.

Đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về chứng khoán nên thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên Trung tâm giao dịch chứng khoán trong quá trình CPH. Các cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH nên hướng dẫn và xây dựng phương án niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trong phương án CPH. Đồng thời gắn kết quá trình CPH DNNN với việc phát triển thị trường chứng khoán.


KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, tiến trình đổi mới DNNN nói chung, tiến trình cổ phần hóa DNNN nói riêng đã bước đầu được ổn định. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề này đã được thực hiện và phát huy tác dụng, từng bước đẩy nhanh việc thực hiện CPH, góp phần đưa nền kinh tế nước ta dần thích nghi với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Cho tới nay, quá trình CPH ở nước ta đã đạt được một số những kết quả tích cực nhất định. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những tồn tại và khó khăn đòi hỏi phải có những biện pháp giải quyết. Cổ phần hoá là một tiến trình tất yếu phải có nhằm lành mạnh hóa nền kinh tế cũng như để phát triển đất nước, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy tiến trình CPH cũng như nâng cao hiệu quả của CPH, các nhà quản lý cần đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng, hoàn thiện về cơ chế chính sách, tạo những điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho việc thực hiện tiến trình này.

Với đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – thực trạng và giải pháp”, em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu về quá trình CPH hiện nay.

Tuy nhiên, đây là một vấn đề khó và phức tạp, mặt khác, do thời gian tìm kiếm tài liệu còn chưa nhiều và trình độ bản thân còn hạn chế, những phân tích trong đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được thầy cô và các cán bộ tại Viện đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài hơn.

Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thị Tường Anh – giáo viên hướng dẫn và các cô – Cán bộ làm việc tại Viện quản lý kinh tế trung ương đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.


PHỤ LỤC

Một số văn bản pháp quy về CPH DNNN

CPH DNNN được bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, với mục tiêu đảm bảo quyền sở hữu Nhà nước, huy động vốn nhàn rỗi, tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sau đó, CPH được chủ chương thực hiện với quy mô rộng lớn hơn. Cụ thể là:

1. Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.

2. Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp xúc thực hiện thí điểm cổ phần hóa DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.

3. Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần.

4. Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần.

5. Thông báo số 63-TB/TW ngày 4/4/1997 ý kiến của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc CPH DNNN.

6. Quyết định số 111/1998/QĐ-TTg ngày 29/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương.

7. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí