LUẬN VĂN:
Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Có thể bạn quan tâm!
- Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự - 2
- Các Phương Tiện Chứng Minh Trong Tố Tụng Dân Sự
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Đương Sự Trong Việc Cung Cấp Chứng Cứ Và Chứng
Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau cần phải sáng tỏ như:
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau về chứng cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều luật, từ Điều 79 đến Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, luật sư... có cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và vấn đề chứng minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một loại chứng cứ, có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật sư có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả chọn đề tài: " Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự " làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mọi thủ tục tố tụng phi hình sự đều thực hiện theo ba Pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết, luận văn được nghiên cứu dựa theo các Pháp lệnh đó. Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 205 vấn đề chứng minh và chứng cứ mới chỉ có một số bài viết như "Chế định chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Công Bình, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004. Những bài viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ, chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả chưa có đủ điều kiện nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân sự theo phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền thống (dân sự và hôn nhân gia đình), còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này trong các công trình nghiên cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v...
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trưng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vướng mắc về chứng cứ và chứng minh trong thực tiễn cần phải giải quyết và nêu những kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm chứng cứ
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tượng có mối liên hệ phổ biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng cứ cũng là một dạng vật chất, nó phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại trong đầu óc, trí nhớ.
Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong các nguồn của chứng cứ. Để làm rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào? Các đương sự đã cung cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được một số chứng cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện pháp để nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng cứ mà pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc dân sự.
Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án dân sự"; hay Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".
Về nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu chung là khẳng định: Chứng cứ là sự thật khách quan.
ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn. Qua thực tiễn xét xử và các loại chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự, theo tác giả có một số quan điểm sau:
Cụm từ "những gì có thật" chưa thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học. Cụm từ này trừu tượng khó hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý đòi hỏi trong sáng, minh bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trước đó, đã có quan điểm góp ý dự thảo Bộ
luật Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những tin tức có thật". Có thể cụm từ này sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể hơn, sát với thực tế cuộc sống hơn. Nó giúp cho các chủ thể nhận thức về chứng cứ dễ dàng hơn vì chứng cứ là những cái có thể xác định được, nghe được, nhìn được, thậm chí chiếm giữ được trên thực tế. Tóm lại, dù tồn tại dưới dạng vật hay vật có giá trị mang tin thì nó đều tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, tựu chung nó mang một thông tin, một số thông tin khách quan có thật.
Việc quy định "... do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự...", quy định này còn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau "... cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc của định nghĩa. Khái niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản: phản ánh toàn diện về đối tượng; phản ánh tương đối chính xác về đối tượng; là sự hiểu biết tương đối có hệ thống về đối tượng.
Trên lập trường, quan điểm thế giới quan duy vật, xem xét chứng cứ xuất phát từ thực tế khách quan của chính bản thân nó chứ không lệ thuộc vào ý thức của con người.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự vận động, phát triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc, có nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không ở dạng tĩnh lặng, bất động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Từ những ý kiến bình luận trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức phản ánh sự thật khách quan do đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức, người tham gia tố tụng giao nộp hoặc Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên quan đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay những tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ. Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong các loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng phải luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng. Vì vậy,