viên/giảng viên của trường là không quá 20; trong đó đối với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ là không quá 15, các ngành kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn là không quá 25 vào năm 2015.
- Tập trung bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ viên chức. Đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên. Xây dựng tầm nhìn chiến lược, năng lực sáng tạo và tính chuyên nghiệp cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý của trường.
- Khuyến khích cán bộ viên chức tham gia học tập sau đại học bằng nguồn tài trợ theo tinh thần Quyết định 47/2006/QĐ-ĐHCN. Cử người có đủ điều kiện đi tu nghiệp và học tập ở nước ngòai bằng nguồn học bổng viện trợ thông qua các hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế của trường. Phấn đấn từ nay đến năm 2010, mỗi năm có thêm 10 người trúng tuyển sau đại học trong nước và 1 người học sau đại học ở nước ngoài, đồng thời thu hút được 5 người có trình độ thạc sĩ về trường công tác.
- Phấn đấu đến năm 2015, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có 50% cán bộ giảng dạy có trình độ sau đại học, trong đó có 10% là tiến sĩ.
Ngoài ra, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cần xem xét, đề xuất với Bộ Công nghiệp bổ sung nguồn nhân lực KH&CN có trình độ sau đại học từ các cơ quan ban ngành của Bộ tham gia giảng dạy tại trường, góp phần khắc phục được tình trạng lãng phí trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
2.2.5.2. Quản lý tốt công tác đào tạo
Hoàn thiện tổ chức, quản lý đào tạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu để thực hiện tốt công tác đào tạo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Để đáp ứng được yêu cầu này, các khoa dựa vào khung chương trình, kế hoạch đào tạo qui định từ đó hòan thiện kế hoạch giảng dạy của khoa theo từng học kỳ, năm học, khóa học. Đồng thời, xây dựng chương trình chi tiết về nội dung chuyên môn được giao trên cơ sở đó phân công các bộ môn thực
hiện.
Bộ môn chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch đào tạo về các môn học; phân công theo dõi các giảng viên thực hiện các môn học cụ thể; tăng cường bồi dưỡng cán bộ thường xuyên bằng các hình thức thích hợp như tổ chức sinh hoạt học thuật, chuyên môn, nghiên cứu khoa học giáo dục... Bộ môn chính là cơ sở để thực hiện đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng tích cực hóa người học, lấy người học làm trung tâm phù hợp với hướng đào tạo coi trọng năng lực thực hành của người học.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quan Điểm Và Giải Pháp Phát Triển Nhân Lực Kh&cn Ở Việt Nam Hiện Nay
- Chuẩn Mực Quốc Gia Về Đội Ngũ Cán Bộ Một Trường Đại Học Và Tình Hình Nhân Lực Của Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội Hiện Nay
- Thống Kê Số Ngành, Nghề Ở Các Cấp Trình Độ Và Loại Hình Đào Tạo Qua Các Năm (2003 - 2007)
- Một Số Giải Pháp Chính Sách Phát Triển Nhân Lực Khoa Học Và Công Nghệ Của Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội
- Chính Sách Tuyển Dụng, Sử Dụng Cán Bộ
- Chính sách phát triển nhân lực khoa học và công nghệ để xây dựng trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội - 10
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Ngoài ra, để việc kiểm tra, đánh giá quá trình đào tạo được khách quan, chính xác, trường đã tổ chức một đơn vị làm nhiệm vụ khảo thí độc lập. Đơn vị này sẽ xây dựng các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, xây dựng hệ thống học cụ kiểm tra, đánh giá chất lượng một cách khách quan với cả người dạy và người học.
2.2.5.3. Liên thông trong tất cả các cấp học
Liên thông được quy định tại điều 32 và 38 của Luật Giáo dục 2005. Do trường có 3 bậc đào tạo (trung cấp chuyên nghiệp – cao đẳng - đại học) nên việc liên thông sẽ không quá khó khăn như những trường đào tạo từng bậc học. Liên thông là quá trình đào tạo cho phép công nhận và chuyển đổi kết quả học tập, rèn luyện của người học. Quy định cho phép sinh viên có thể nhận thêm một hoặc nhiều bằng cấp mới mà không cần phải học lại những gì đã học xong (trong một thời gian quy định). Liên thông được thực hiện sẽ bao gồm chuyển tiếp sinh viên đến học thêm một bằng cấp cao hơn (là sinh viên của trường hoặc trường ngoài) theo hình thức liên thông, liên kết giữa các trường với nhau nhằm tào điều kiện thuận lợi cho sinh viên.
Cụ thể, ngoài việc đào tạo đại học, cao đẳng, ngay từ đầu qua một cuộc tuyển sinh đầu khóa, trường ĐH Công nghiệp Hà Nội còn nhận học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học nghề với thời gian 3 – 4 năm để nhận bằng trung cấp. Số tốt nghiệp loại khá, giỏi có thể chuyển tiếp lên học bậc cao đẳng hoặc đại học. Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng loại khá, giỏi có thể được chuyển tiếp học đại học trong 1,5 năm hoặc 2 năm. Những sinh viên tốt nghiệp loại
trung bình hoặc trung bình khá chỉ có thể liên thông sau khi ra trường làm việc đúng ngành nghề ít nhất 2 năm và phải qua một cuộc thi sát hạch.
Liên thông của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có mục đích:
- Tiết kiệm cho người học;
- Nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong các doanh nghiệp;
- Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội học cao hơn theo hoàn cảnh của
mình;
- Phát triển các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề vì con
đường học cao hơn sẽ thuận lợi, có thể vừa học vừa làm. Hiệu quả của việc làm này sẽ góp phần phân luồng sau trung học cơ sở.
Ngoài ra, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cần liên kết hợp tác với các nước như Úc, Singapo, Ấn Độ để đào tạo nguồn nhân lực chất lương cáo cung cấp nhu cầu nhân lực trong nước. Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội cũng sẽ xúc tiến hợp tác quốc tế, tìm kiếm các học bổng du học nước ngoài, du học tại chổ, đào tạo xen kẽ trong và ngoài nước để nhận bằng cấp nước ngoài.
2.2.5.4. Thực hiện học chế tín chỉ
Đề án đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2006-2020 được Bộ GD & ĐT triển khai, khi định hình mục tiêu trong phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 có nhấn mạnh: “Giáo dục đại học phải có bước chuyển cơ bản về quy mô và chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển xã hội và nâng cao trí tuệ của dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới…”. Mục tiêu trên được thực hiện bởi các nhiệm vụ và giải pháp lớn, trong đó có đề cập đến việc “xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học nước ta và vạch ra lộ trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, tạo thuận lợi cho người học có thể tích lũy dần kiến thức theo kỹ năng và điều kiện của mình, có thể di chuyển học tập trong nước và quốc tế”. Theo đó, Chính phủ đã chủ trương
học chế tín chỉ sẽ được áp dụng trong hầu hết các trường đại học trong nước và năm 2010, hầu hết các trường đại học phải chuyển sang mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội tuy mới thành lập, còn non trẻ, nhưng để khẳng định vị thế và thực lực của mình, phù hợp với loại hình đặc thù là trường đại học đa cấp, đa ngành, đa chức năng, thực hiện đào tạo liên thông, thì ngoài việc đẩy mạnh hai nhiệm vụ quan trọng là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, thì vấn đề mà trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đang hết sức quan tâm trong điều kiện hiện nay là từng bước triển khai chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ và tiếp tục hòan thiện mô hình đó trong quá trình đào tạo của nhà trường.
Hệ thống tín chỉ (credit) cho phép trường đào tạo linh hoạt, mềm dẻo, người học có thể tự lượng sức mình để hòan thành văn bằng mà mình theo đuổi.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ giúp sinh viên tự chủ và năng động. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng của chất lượng đào tạo mà nhà trường theo đuổi nhằm có thể nhanh chóng phát triển trong một tương lai gần.
Mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu đào tạo ở đại học. Nó giúp cho người học có kiến thức rộng, kiến thức tiềm năng vững chắc, nhất là “có năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đại học”. Thông qua việc đào tạo, người học sẽ biết vận dụng kiến thức đã học để trưởng thành bằng cách xác lập các mục đích cá nhân và xây dựng thói quen học tập suốt đời.
2.2.5.5. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhà trường
Nghiên cứu khoa học (NCKH) trong trường học là một trong hai nhiệm vụ chính trị quan trọng, chính yếu nhất. Nhiệm vụ NCKH gắn với nhiệm vụ đào tạo, vừa là điều kiện, vừa là phương thức đào tạo, vừa là nội dung tìm
kiếm, phát hiện những cái chưa biết phục vụ cho sự phát triển của xã hội. Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt bậc đào tạo đại học với bậc phổ thông.
Chính vì thế, để xứng đáng với tầm vóc của một trường đại học đa ngành, đa chức năng trong khu vực và vị thế là trung tâm văn hóa - khoa học - kỹ thuật cao của trường, từng bước khẳng định được thế và lợi thực sự của mình, với đội ngũ cán bộ công chức có trình độ cao và bản lĩnh khoa học, có khả năng đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn tay nghề, trường ĐH Công nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện hai nhiệm vụ đào tạo và NCKH. Hai nhiệm vụ này gắn bó mật thiết với nhau, trong đó NCKH được xem là yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường nói chung và chất lượng đào tạo của cán bộ giảng viên nói riêng. Nó chính là đòn bẩy, là động lực tạo ra tiềm lực cho giảng viên và sinh viên. Nó không chỉ phục vụ cho công tác đào tạo của nhà trường mà còn phục vụ yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương khu vực và cả nước.
Hoạt động NCKH có nhiều bước, nhiều khâu, nhiều công đoạn và nhiều mặt, trong đó mặt đề tài có vị trí và tầm quan trọng nhất. NCKH về thực chất là giải quyết các đề tài nghiên cứu. Tất nhiên để giải quyết đề tài thì phải có nhiều mặt khác nữa, nhưng tất cả các mặt đó cũng chỉ để phục vụ cho việc giải quyết đề tài. Đề tài là vấn đề mấu chốt, trọng tâm là vấn đề sống còn của NCKH. Chính vì thế, tổ chức và quản lý đề tài NCKH là điều kiện và nhân tố quan trọng, cần thiết để đảm bảo cho NCKH thành công ở trường đại học.
Để có thể nhanh chóng phát triển và từng bước đi vào hoạt động ổn định, trường ĐH Công nghiệp Hà Nội cần hết sức chú trọng đến công tác tổ chức và quản lý đề tài NCKH với các nội dung sau:
- Xây dựng các định hướng NCKH, xác định các mảng đề tài mũi nhọn, trọng tâm, cơ bản gắn với chuyên môn đào tạo từng năm hoặc dài hơn nữa để các đơn vị và cán bộ công chức có thể lựa chọn tham gia, tránh được tình trạng bị động và tản mạn trong NCKH.
- Gắn kết NCKH, đặc biệt là các đề tài NCKH với đào tạo, với hệ thống đề tài niên luận, khóa luận, công trình NCKH của sinh viên, tạo điều kiện để sinh viên có thể NCKH theo Quy chế về NCKH của sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng (ban hành kèm theo quyết định số 08/2000/QĐ- BGD&ĐT ngày 30/3/2000 của Bộ giáo dục và Đào tạo. Theo đó:
- Đề tài NCKH của sinh viên có thể là một phần của đề tài các cấp do các giảng viên, cán bộ nghiên cứu chủ trì hoặc là đề tài do sinh viên tự chọn.
- Mỗi sinh viên hoặc một nhóm sinh viên thực hiện đề tài dưới sự hướng dẫn của các giảng viên, cán bộ nghiên cứu và nghiên cứu sinh.
- Đề tài NCKH của sinh viên được thủ trưởng các cơ sở phê duyệt và tổ chức đánh giá (theo quy định ban hành của trường).
Như vậy, các đề tài phải mang tính thiết thực, có thể ứng dụng vào trong thực tiễn sản xuất của các doanh nghiệp hay trong sinh hoạt và đời sống của nhân dân, được xã hội chấp nhận và có thể đưa vào nghiên cứu triển khai thực hiện. Đây là giải pháp hỗ trợ đắc lực nhất cho người học, giúp họ khi ra trường có thể tự thân vận động, tự xử lý trước những tình huống xảy ra trong cuộc sống, cũng như giúp họ có thể hòan thiện khả năng nghề nghiệp của mình.
Các khoản học bổng và hỗ trợ vật chất cho các em thực ra cũng rất cần thiết, vì có thể giải quyết được phần nào khó khăn trước mắt, nhưng dẫu sao cũng chỉ mang tính khuyến học nhằm động viên giúp các em vượt qua khó khăn, phấn đấu vươn lên trong học tập. Còn dạy cho các em biết cách lĩnh hội các phương pháp NCKH, biết cách học tập, nghiên cứu tinh thần khoa học với những đức tính trí thức và những đức tính đạo đức, biết tuân thủ theo các quy định của logic NCKH và thể hiện đúng bản lĩnh, tác phong như một nhà khoa học thực thụ, mới là cách làm tích cực nhất.
Đây chính là nội dung then chốt và cốt lõi nhất của hoạt động NCKH trong các trường đại học.
* Không hạn chế số lượng đề tài NCKH, song tuỳ thuộc vào kinh phí, những đề tài được Hội đồng khoa học và đào tạo đánh giá tốt hơn sẽ được đưa vào triển khai trước, những đề tài cần bổ sung, sửa chữa thì đưa vào chương trình năm sau.
- Khuyến khích và tạo điều kiện hợp tác trong giải quyết các đề tài NCKH, đặc biệt là những đề tài cấp trên trường tăng cường, bổ sung kinh phí cho những đề tài quan trọng và có chất lượng khi nghiệm thu.
- Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ NCKH, không ngừng mở rộng, chú ý tạo nguồn từ lớp cán bộ trẻ từ trong đội ngũ cán bộ giảng dạy và sinh viên của trường
Hoạt động Hợp tác quốc tế: Trường chủ trương mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài về đào tạo, chuyển giao công nghệ và nghiên cứu khoa học. Các chương trình, dự án hợp tác quốc tế đã và đang triển khai:
- Chương trình hợp tác kỹ thuật do chính phủ Nhật Bản tài trợ để phát triển đào tạo nghề thuộc 3 lĩnh vực: Gia công cơ khí, Gia công kim loại tấm, Điều khiển điện, điện tử.
- Hợp tác với các trường đại học của Australia đào tạo các ngành: Công nghệ thông tin, Kế toán, Quản trị kinh doanh
- Hợp tác đào tạo lập trình viên quốc tế với Aptech (Ấn độ)
- Hợp tác đào tạo Hàn công nghệ cao với các trường đại học và doanh nghiệp của Hàn Quốc.
- Hợp tác với công ty TOYOTA Việt Nam thực hiện chương trình đào tạo nghề sửa chữa vỏ và sơn vỏ xe ô tô theo công nghệ Nhật Bản.
- Hợp tác với Tập đoàn KHKT Hồng Hải, Đài Loan mỗi năm đào tạo cho phía bạn 1200 học viên.
- Có quan hệ hợp tác với các trường đại học, các tổ chức ở nhiều nước trên thế giới như Singopore, Hàn Quốc, Đài Loan, Cộng hòa Séc,...
Quan hệ hợp tác của nhà trường đối với các công ty, tập đoàn trong và ngoài nước phát triển tốt dẫn đến nhu cầu về nhân lực ngày càng cao.
Kết luận chương 2
Hiện nay, đối với các trường đại học, quản lý và phát triển nguồn lực con người (đội ngũ cán bộ KH&CN) và theo đó là các cơ chế, chính sách quản lý đội ngũ cán bộ cũng đang được xem như một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, chủ yếu, và có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành công trong các mặt hoạt động của nhà trường.
Trên cơ sở đó, nội dung của chương 2 cũng đã phân tích để thấy được những mặt được và chưa được trong các cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý đội ngũ cán bộ ở ĐH Công nghiệp hiện nay. Từ đó, xác định các nguyên nhân chủ yếu và lựa chọn các hướng tiếp cận để tiển hành nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ nói chung, và hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng và quản lý đội ngũ cán bộ ở ĐH Công nghiệp nói riêng. Và để nhằm thực hiện chủ trương “Phát huy mọi nguồn lực, tạo những bước đột phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, phát triển ĐH Công nghiệp tiến tới đạt trình độ ngang tầm các đại học tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, trong đó một số ngành, chuyên ngành khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế - xã hội mũi nhọn đạt trình độ quốc tế; nâng cao vị thế và uy tín trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và trên thế giới” của ĐH Công nghiệp trong giai đoạn phát triển hiện nay.