sở đó, các chính sách giải quyết việc làm của Nhà nước cần tác động tới các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Việc phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc tạo nhiều việc làm mới, xóa đói giảm nghèo. Khu vực kinh tế này bao gồm thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cần đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế tư nhân. Thực tế hiện nay khu vực ngoài nhà nước đang tạo ra khoảng 90% chỗ làm cho người lao động và trong tương lai, với chủ trương tinh giản biên chế và giảm bớt số DNNN thì đây chính là khu vực chủ chốt tạo việc làm cho người lao động.
Phát triển kinh tế tư nhân trong khu vực phi nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng cần khuyến khích phát triển, vì khu vực này chính là nơi có tiềm năng tạo việc làm rất lớn, đồng thời cũng tạo ra sự gia tăng nhanh chóng thu nhập của người lao động. Nhà nước cũng cần có các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân, xem đó là một giải pháp tốt để tạo việc làm.
Hiện nay chính phủ đã giải quyết một số những hạn chế mà khu vực kinh tế ngoài nhà nước gặp phải nhưng vẫn có sự thiên lệch về chính sách, không có lợi cho sự phát triển của khu vực này. DNNN vẫn tiếp tục được hưởng sự tiếp cận ưu đãi với hầu hết các nguồn lực trong nước và tiếp tục được bảo hộ khỏi cạnh tranh. Vì thế, để khuyến khích kinh tế ngoài nhà nước phát triển, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với khu vực này: (1) Xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước về các quyền sử dụng đất, tín dụng, hỗ trợ xuất khẩu… Cải cách hệ thống tín dụng, phát triển thị trường vốn, xoá bỏ những quy định mang tính phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước trong lĩnh vực tín dụng, tiếp cận các nguồn vốn; (2) Hoàn thiện chính sách lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, linh hoạt hơn trong việc ký kết hợp đồng lao động, tuyển dụng và sa thải lao động, có quy định cụ thể về các vấn đề tranh chấp lao động, đình công, bãi công...; (3) Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp bằng cách hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, từng bước xoá bỏ những quy
định mang tính chất phân biệt đối xử; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết các vấn đề về vốn, về kỹ thuật - công nghệ, về thông tin, thị trường; tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng ổn định, công bằng, đơn giản hoá để kích thích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng nêu trên sẽ kích thích phát triển kinh tế ngoài nhà nước, tạo thêm việc làm trong thời gian tới.
Thứ hai, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn.
Hiện nay, khoảng gần 73% dân số nước ta vẫn sống ở nông thôn, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ trọng lao động nông nghiệp còn khá cao - khoảng 55% năm 2006 và dự tính đến năm 2010 giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50%. Từ đó có thể thấy trong thời gian tới, giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn đóng vai trò quan trọng trong chính sách giải quyết việc làm. Nông nghiệp tuy vẫn là lĩnh vực thu hút lao động nhiều nhất nhưng các ngành khác cũng tạo ra chỗ làm việc đáng kể. Để giải quyết việc làm ở nông thôn cần tập trung sức đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng trưởng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong GDP của khu vực nông thôn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó sẽ thu hút nhiều lao động vào các ngành nghề. Vì thế, phát triển ngành nghề nông thôn được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
Cần chú trọng và có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ hợp tác và hợp tác xã ở nông thôn theo hướng chỉ cần ít vốn đầu tư với công nghệ thích hợp nhưng giải quyết được nhiều việc làm. Tiềm năng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn rất lớn. Để khai thác tiềm năng đó, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ tiểu thủ công nghiệp nông thôn phát triển, khuyến khích họ hợp tác thành các hợp tác xã hoặc chuyển thành các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước tạo môi trường thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong các lĩnh vực: thuê đất phục vụ sản xuất
kinh doanh, vay vốn và bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại và xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ,.... khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, phát triển thành các làng nghề nông thôn. Xây dựng và phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn phù hợp với điều kiện từng địa bàn nhất định.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Chính Sách Phân Phối Thu Nhập Cá Nhân Ở Việt Nam Thời Gian Qua
- Phân Phối Thu Nhập Trong Kttt Định Hướng Xhcn Cần Đặc Biệt Quan Tâm Đến Tầng Lớp Dân Cư Có Thu Nhập Thấp, Các Vùng Còn Kém Phát Triển
- Tiếp Tục Cải Cách Chính Sách Thuế Thu Nhập Cá Nhân Nhằm Điều Tiết Thu Nhập Hợp Lý
- Chính sách phân phối thu nhập cá nhân ở Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
Thứ ba, phát triển thị trường sức lao động đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hoàn thiện quan hệ lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hũa, đồng thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động; tiền lương, tiền công do thị trường quyết định, thúc đẩy phân phối theo lao động, kết hợp với các phân phối khác, khuyến khích mọi người làm giàu, người có tài năng, đồng thời hỗ trợ người khó khăn. Nhà nước đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ tầng của thị trường sức lao động (dạy nghề, thông tin, dự báo thị trường lao động, tư vấn, giới thiệu việc làm). Phát triển thị trường hiện có và mở rộng thị trường mới về xuất khẩu lao động; đổi mới công tác đào tạo huấn luyện nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài có đủ điều kiện về sức khỏe, tay nghề, ngoại ngữ, tỏc phong cụng nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động...; quy hoạch và phát triển đa dạng các hỡnh thức, cỏc thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong những năm gần đây, tình trạng tỷ lệ thất nghiệp của người lao động đã được đào tạo lớn hơn tỷ lệ thất nghiệp chung của xã hội, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc tìm được việc làm nhưng không đúng với chuyên môn được đào tạo. Nguyên nhân của tình trạng đó là do việc đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao (kỹ thuật, công nghệ, luật, tài chính…) thuộc các ngành mũi nhọn, trong khi lao động nông thôn chưa qua đào tạo lại dôi dư rất nhiều đang là trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Lao động quản lý đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của khu vực và thế giới lại càng thiếu, hầu hết những nhà quản trị cao cấp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là người ngoại
quốc. Vì thế cần phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp truyền thụ, nội dung và cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu lao động trong nền kinh tế trong mỗi thời kỳ; cần quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề một cách hợp lý, tiến hành quy hoạch lại và đầu từ có chiều sâu và lâu dài cho các cơ sở dạy nghề kỹ thuật cao để chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Cụ thể là phỏt triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao hiệu quả dạy nghề theo ba cấp trỡnh độ; chuyển mạnh từ dạy nghề trỡnh độ thấp sang dạy nghề trỡnh độ cao, dài hạn; gắn kết dạy nghề và sử dụng lao động với kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xó hội, với doanh nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, dạy nghề cho vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của nhân dân, đặc biệt là thanh niên về nghề nghiệp nhằm định hướng lại giá trị xã hội đối với nghề nghiệp, hình thành quan niệm mới về lao động và việc làm.
Thứ tư, tăng đầu tư cho quỹ quốc gia về giải quyết việc làm, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của quỹ; thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giải quyết việc làm.
Đây là biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm trong thời gian tới. Việc tăng đầu tư cho quỹ việc làm thực hiện thông qua nhiều hình thức, không chỉ là cấp vốn ngân sách nhà nước. Quan trọng nhất là việc thẩm định dự án cho vay của quỹ phải đảm bảo đúng đối tượng, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của quỹ. Nghĩa là cho vay những đối tượng có khả năng làm ăn hiệu quả, có thể chi trả để quỹ không bị thâm hụt trong tương lai, đồng thời vẫn phải đảm bảo mục tiêu của quỹ là tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, cần huy động tối đa mọi nguồn lực có thể vào giải quyết việc làm cho người lao động. Kích thích tính năng động, sáng tạo của mỗi người trong việc tự tạo ra công việc cho bản thân cũng như tạo việc làm và thu nhập cho người khác. Khuyến khích, mở rộng và đặc biệt là tạo điều kiện cho mọi người học hỏi những mô hình tạo việc làm có hiệu quả, làm ăn tốt, góp phần nâng cao thu nhập của người dân,
nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và vùng khó khăn. Đồng thời có chính sách hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm của những dự án tạo nhiều việc làm cho người lao động.
3.2.3.2. Chính sách xoá đói giảm nghèo
Chính sách xóa đói giảm nghèo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phân phối thu nhập công bằng. Khi chính sách xóa đói giảm nghèo hoạt động có hiệu quả, cuộc sống của bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp sẽ được cải thiện đáng kể, từ đó sẽ thu hẹp được hố ngăn cách thu nhập trong xã hội.
Mục tiêu tổng quát xoá đói, giảm nghèo là phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, đại bộ phận người nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội, hoàn thành cơ bản các mục tiêu trợ giúp các xã đặc biệt khó khăn, mở rộng cơ hội cho mọi người thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu trên, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tạo môi trường kinh tế - xã hội, cơ chế chính sách thuận lợi cho các thành phần kinh tế, đặc biệt cho kinh tế tư nhân phát triển, mọi công dân được quyền tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Nhờ đó huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập. Đây là giải pháp cơ bản nhất để xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đây là hướng trọng tâm của chiến lược xoá đói giảm nghèo bởi thực tế cho thấy, hầu hết các hộ đói nghèo, có hoàn cảnh khó khăn nhất đều sinh sống ở địa bàn nông thôn. Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, đảm bảo đầu ra ổn định cho các nông sản hàng hóa. Thực hiện đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, lựa chọn các cây, con có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng. Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học, kỹ thuật thâm canh.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ, đưa
ngành nghề mới vào nông thôn. Việc phát triển khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn như trên đã trình bày. Các cuộc điều tra về thu nhập và mức sống cho thấy những vùng thuần nông, những hộ thuần nông thường có thu nhập và mức sống thấp hơn mức trung bình. Do đó, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ có tác dụng tích cực đến xoá đói giảm nghèo.
Thứ ba, tăng cường hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất vươn lên làm giàu. Trước hết là hỗ trợ vốn bởi nếu không có vốn, không được tiếp cận các nguồn vốn, thì người nghèo cũng khó có điều kiện để phát triển sản xuất. Vì vậy, chính sách cho vay vốn người nghèo cần mở rộng diện cho vay, kéo dài thời hạn vay, giảm mức lãi suất cho vay và nới lỏng điều kiện cho vay. Đồng thời với cho vay vốn, cần hướng dẫn họ biết cách sử dụng vốn, tìm hướng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Người nghèo không chỉ thiếu vốn, mà còn thiếu kiến thức chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là các kỹ thuật mới, không nắm được nhu cầu hàng hóa trên thị trường. Vì thế, cần bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin, giúp tiêu thụ sản phẩm đối với vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Thực hiện liên kết bốn nhà (nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp và Nhà nước) trong sản xuất nông nghiệp là mô hình trợ giúp thiết thực cho nông dân nói chung và người nghèo nói riêng. Đồng thời tăng cường hơn nữa công tác khuyến nông, khuyến công; tổ chức mạng lưới khuyến nông, khuyến công đến tận thôn, xã để giúp người dân nông thôn sử dụng vốn đúng mục đích, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nhờ đó góp phần xoá đói giảm nghèo. Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt cho các xã khó khăn, trước hết là xây dựng đường giao thông để ô tô có thể đến được các xã trong mọi điều kiện thời tiết, có điện phục vụ sản xuất, tạo cơ sở thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Thứ tư, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Phúc lợi xã hội là công cụ mà Nhà nước sử dụng để làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu cho thấy những trợ cấp này còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thu nhập của dân cư,
nghĩa là dân cư Việt Nam có thu nhập từ lao động cá nhân và gia đình là chủ yếu, thu nhập do phân phối lại mang tính xã hội còn thấp. Một đặc điểm đáng lưu ý là các tầng lớp trung lưu được hưởng nhiều hơn từ sự phân phối phúc lợi xã hội so với những nhóm người có thu nhập thấp. Các nghiên cứu cũng cho thấy học vấn càng cao thì càng có khả năng thuộc vào nhóm có mức sống cao. Vì vậy cần tạo cơ hội cho người nghèo được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch, vệ sinh,... từ đó có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ năm, thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác xoá đói, giảm nghèo. Thực hiện đa dạng hoá các nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo, bên cạnh nguồn đầu tư của Nhà nước, cần huy động các nguồn lực tại chỗ, hỗ trợ của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và sự trợ giúp quốc tế cho sự nghiệp chống đói nghèo. Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm xoá đói, giảm nghèo, tạo phong trào và sức mạnh tổng hợp xoá đói giảm nghèo. Xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ đảng, chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành, vai trò của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, khơi dậy trách nhiệm của cộng đồng, tinh thần lá lành đùm lá rách và sự vươn lên của chính bản thân người nghèo. Tổ chức thực hiện nhân rộng các mô hình xoá đói giảm nghèo thành công: mô hình tiết kiệm - tín dụng của hội phụ nữ, mô hình xoá đói giảm nghèo theo hướng tự cứu ở các tỉnh miền Trung, mô hình hướng dẫn cách làm ăn cho đồng bào dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc,...; lồng ghép các chương trình kinh tế, xã hội với chương trình xoá đói giảm nghèo.
3.2.3.3. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
* Hoàn thiện chính sách BHXH
Trong thời gian qua, chính sách BHXH đã từng bước được cải thiện và trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển con người của nước ta. Việc thực hiện chính sách BHXH đã có chuyển biến mạnh mẽ, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước là chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khoẻ cho người lao
động. Để thực hiện mục tiêu đó cần thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội.
Thứ nhất, đưa Luật BHXH đi vào thực tế cuộc sống, ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện để tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động BHXH. Các chế độ bảo hiểm cần được quy định phù hợp, có hướng dẫn cụ thể để người làm công tác BHXH ở cơ sở có thể vận dụng một cách dễ dàng.
Thứ hai, có chính sách và chế tài thích hợp để gia tăng số người tham gia đóng BHXH, cả tự nguyện lẫn bắt buộc. Đa dạng húa cỏc loại hỡnh bảo hiểm xó hội theo nguyờn tắc "đóng - hưởng", đồng thời khuyến khích các hỡnh thức bảo hiểm tự nguyện khỏc để mở rộng đối tượng tham gia. Tổ chức thực hiện thí điểm và tổng kết tình hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, để từ đó từng bước đưa bảo hiểm thất nghiệp vào hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam. Có chế tài mạnh và chặt chẽ đối với các doanh nghiệp trốn nộp, chây ì không nộp BHXH. Thực hiện tốt việc tuyên truyền để người lao động nhận thức được rõ vai trò và lợi ích của BHXH đối với cuộc sống của bản thân và gia đình trong tương lai, để từ đó không còn tình trạng không muốn nộp BHXH.
Thứ ba, mức đóng góp, thời gian đóng góp và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cần được nghiên cứu, xác định cho phù hợp để đảm bảo cuộc sống ổn định của đối tượng, tính toán đảm bảo công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ, cân đối giữa thu và chi để đảm bảo an toàn quỹ bảo hiểm xã hội lâu dài. Do đó cần xây dựng phương án bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm dài hạn để đảm bảo cân đối thu chi độc lập.
Thứ tư, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống bảo hiểm Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về trình độ chính trị, chuyên môn, đạo đức hết lòng phục vụ đối tượng.
* Thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội
Để hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau: