- Nêu lên những thuận lợi, khó khăn, trên cơ sở đó đưa ra triển vọng và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp cho việc thực thi chính sách hội nhập quốc tế phát huy hiệu quả hơn nữa.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Những thành tựu trong quan hệ đối ngoại, kinh tế và các mặt khác những minh chứng cho sự thành công của chính sách hội nhập quốc tế.
Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận văn bắt đầu từ năm 1995- năm đánh dấu sự hội nhập khu vực của Việt Nam và mở ra thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Vì tính liên tục của hoạt động đối ngoại nên luận văn dành một phần nhất định cho giai đoạn trước năm 1995, nhất là trong 10 năm đầu tiến hành đường lối đổi mới. Thời điểm kết thúc là năm 2007- đánh dấu sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận văn quán triệt các luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trong thời đại mới, đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu. Luận văn bám sát các quan điểm đánh giá, nhận định tình hình quốc tế, khu vực và chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và các Nghị quyết trung ương trong thời kỳ này đặc biệt là Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27 tháng 11 năm 2001 về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận và định hướng tư tưởng trong nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nằm trong phạm vi chuyên ngành quan hệ quốc tế, là một bộ phận của khoa học xã hội nên luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Các phương pháp khác như tiếp cận hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp được sử dụng như là những phương pháp bổ trợ cần thiết cho hai phương pháp chủ yếu nêu trên để nghiên cứu và trình bày luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 1
- Tình Hình Trong Nước Và Những Thành Tựu Sau 10 Năm Đổi Mới
- Việt Nam Chủ Trương Tăng Cường Quan Hệ Hợp Tác Nhiều Mặt Với Từng Nước Láng Giềng Cũng Như Với Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (Asean) Với Tư Cách Là
- Nội Dung Cơ Bản Của Chính Sách Hội Nhập Quốc Tế
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Luận văn tập trung làm rõ một cách hệ thống quá trình hoạch định và triển khai chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới. Qua đó thấy được tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh đó, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học xung quanh việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói chung và chính sách hội nhập quốc tế nói riêng.
Luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tìm hiểu chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương.
Chương 1: Tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm đầu sau chiến tranh lạnh
Trong chương 1, tác giả đề cập đến tình hình thế giới, khu vực và trong nước trong những năm đầu sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là những biến động của tình hình thế giới, sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu và những tác động trực tiếp của nó tới tình hình Việt Nam.
Chương 2: Chính sách hội nhập quốc tế từ năm 1995 đến nay: Nội dung và những kết quả đạt được.
Chương này tác giả đề cập tới những nội dung cơ bản của chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam được đề ra qua các kỳ Đại hội Đảng trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Những thành công trong việc triển khai chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta được tác giả minh hoạ qua những kết quả đạt được trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Chương 3: Hệ quả, kinh nghiệm, cơ hội và thách thức trên tiến trình hội nhập quốc tế.
Chương này tác giả nêu lên những hệ quả của việc hội nhập quốc tế, rút ra những kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách thức trên tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Chương 1
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
Thập kỷ 90 của thế kỷ XX được mở đầu bằng những sự kiện làm đảo lộn tình hình và tương quan lực lượng trên thế giới. Những sự kiện đó cũng đã có tác động mạnh mẽ tới việc hoạch định chính sách đối ngoại nói chung, chính sách hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng và Nhà nước ta.
Đầu tiên đó là sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã chậm đổi mới tư duy, chậm ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào việc phát triển nền kinh tế, thiếu sự quyết đoán và phương sách hiệu quả nhằm khắc phục các khuyết tật của mô hình phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, khép kín dẫn đến việc những nước này ngày càng tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ so với các nước tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, những rối ren về chính trị, mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tượng ly khai của một số nước cộng hòa ra khỏi Liên bang Xô viết. Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện rút quân chiến lược, rút quân đội khỏi các căn cứ quân sự ở nước ngoài, giảm hoặc cắt viện trợ quân sự, giải thể khối quân sự Vácxava, tăng cường chính sách hoà hoãn với Mỹ. Tình hình đó cũng thúc đẩy các nước XHCN ở Đông Âu đi vào cải cách. Tuy vậy, cũng như Liên Xô, tình hình ở các nước XHCN ở Đông Âu rơi vào những khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội và cùng trên bờ vực
của sự tan rã. Bên cạnh đó, các nước đế quốc đã chớp lấy cơ hội này tăng cường hoạt động “diễn biến hoà bình”, khuyến khích các lực lượng chống đối gây bạo loạn và lật đổ chế độ.
Sau khi Liên Xô và chế độ XHCN ở các nước Đông Âu tan rã, chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Tương quan lực lượng trên thế giới tạm thời có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phương Tây, chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực không còn nữa. Thay vào đó là một trật tự thế giới mới đang hình thành.
Chiến tranh lạnh kết thúc, “hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới” [19, tr.464]. Quan hệ giữa các quốc gia từ đối đầu chuyển sang đối thoại, các quốc gia quan tâm tới việc cải thiện các mối quan hệ, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, “các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác” [19, tr.464]. Vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình là một nhu cầu khách quan; tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế, chạy đua vũ trang được thay thế bằng chạy đua về kinh tế, khoa học – kỹ thuật tiếp tục được nghiên cứu và phát triển, các nước “coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia” [19, tr.464] và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới vẫn xảy ra những cuộc “xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố” [19, tr.463]. Phong trào ly khai đã diễn ra ở nhiều nơi, những cuộc “nồi da xáo thịt” giữa các dân tộc mà trước đây cùng chung sống trong một nước. Những mâu thuẫn đó được che lấp dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Điều đó đã cho thấy tình hình thế giới
vẫn còn nhiều bất ổn, “diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường” [19, tr. 462].
Bên cạnh những thay đổi về chính trị, kinh tế trên thế giới, cuộc “cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội” [19, tr. 463]. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã làm thay đổi một cách căn bản và tạo ra bước phát triển mạnh mẽ trình độ của lực lượng sản xuất. Nó là nhân tố cơ bản làm cho xã hội phát triển, đồng thời nó tạo ra những thay đổi căn bản cả về lượng và chất đối với mọi mặt của đời sống xã hội, nó cũng là tác nhân thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa.
Bên cạnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là cuộc cách mạng công nghệ thông tin, nó đã đưa nhân loại từ k inh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức, chính nó đã thu hẹp khoảng cách thế giới và đặt ra cho các nước còn khép kín nền kinh tế phải có chính sách phù hợp với sự phát triển của thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển nhanh chóng. Xu thế toàn cầu hóa đã mang lại cho thế giới một sắc thái mới đó là sự nhích lại gần nhau của những nền kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi lưu thông tiền tệ và thương mại phải tự do hơn, nó làm cho các nền kinh tế ngày càng thâm nhập, đan xen lẫn nhau, tăng thêm sự phụ thuộc vào nhau. Nó đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách hội nhập quốc tế một cách hợp lý, đáp ứng được những yêu cầu của thế giới và khu vực, đồng thời vẫn giữ đ ược tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đem đến cho các quốc gia những cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia cũng như tận dụng cơ hội khác nhau mà dẫn đến sự phát triển khác nhau. Bên cạnh đó, các nước tư bản chủ nghĩa và các công ty đa quốc gia có ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường cho nên có lợi thế lớn hơn rất nhiều so với các nước
chậm phát triển và đang phát triển, chênh lệch giầu nghèo giữa các nước này cũng sẽ ngày càng mở rộng.
Với nền kinh tế toàn cầu, việc tổ chức sản xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước đã nhanh chóng chuyển sang tổ chức sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi thế giới và theo đó, sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường chung trên thế giới.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, là quá trình khu vực hóa. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức khu vực, liên khu vực đã thu hút các quốc gia tham gia, có thể kể đến một số tổ chức: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) … Các liên kết khu vực này lúc đầu xuất phát từ các nhu cầu về phát triển kinh tế nhưng sau đó tiến dần tới những liên kết về chính trị. Sự liên kết khu vực thường thể hiện ở năm cấp độ khác nhau từ ưu đãi thương mại, thị trường tự do, liên minh quan thuế, thị trường chung và cuối cùng là các “liên kết đa diện kiểu Liên minh châu Âu - về cả thị trường lẫn chính sách kinh tế, đồng tiền chung, quốc hội chung ... Các tổ chức khu vực còn có một đặc điểm nữa đó là khả năng thu hút được cả những quốc gia có chế độ chính trị khác nhau nhằm tận dụng khả năng của nhau, đồng thời các quốc gia ngày nay cũng xác định cần phải dựa vào nhau bởi khó có khả năng độc lập để giải quyết công việc.
Trong bối cảnh đó, các nước vừa và nhỏ cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại để tạo vị thế có lợi hoặc ít bất lợi nhất trong môi trường quốc tế đã thay đổi. Chiều hướng chung là thi hành chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, tập hợp trên cơ sở lợi ích song trùng, coi trọng việc cải thiện và phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế trên thế giới
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa
và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo…) không một quốc gia nào có thể tự giải quyết mà cần phải có sự hợp tác đa phương. Các vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, cùng bàn thảo và có quyết sách hợp lý thì mới có thể giải quyết được. Từ nhu cầu khách quan đó, trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các diễn đàn song phương và đa phương cùng bàn bạc, hợp tác giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm (Hội nghị quốc tế bàn về việc thực hiện Nghị định thư Kyoto – Cắt giảm lượng khí thải toàn cầu). Chính từ các diễn đàn này mà vai trò của các nước vừa và nhỏ được nâng lên, bởi những nước đó cũng có những tiếng nói nhất định đóng góp cho các diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nơi tập trung những nền kinh tế lớn trên thế giới, nơi có quốc gia đông dân nhất thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đường giao thông quan trọng, thì nhiều chuyên gia cho rằng Châu Á - Thái Bình Dương sẽ ngày càng phát triển và là một khu vực năng động. Ở khu vực này có những nền kinh tế hùng mạnh như Mỹ, Nhật Bản, Canađa. Các cường quốc này đang có vai trò quan trọng trong việc chi phối các hoạt động quốc tế. Bên cạnh đó còn có các nền kinh tế mới công nghiệp hoá như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Xingapo; nhiều nước đang phát triển với tốc độ nhanh và có tiềm năng lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan ... Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trì trệ thì nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang mở ra những cơ hội lớn cho các nước trong và ngoài khu vực để cùng nhau phát triển. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của APEC, điều đó giúp chúng ta có cơ hội hội nhập khu vực và thế giới.
Bước vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khu vực Đông Á trở thành thành khu vực có tốc độ tăng trưởng rất cao, một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã trở thành những hiện tượng trên thế giới trong việc phát triển kinh tế. Các nước trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hoà bình, hữu nghị và