Quan Hệ Truyền Thống Việt Nam - Liên Xô/ Liên Bang Nga

kinh tế của chúng ta hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả Nga và ASEAN. Đây là vấn đề nghiêm túc mà các thành viên đối thoại Nga - ASEAN cần phải tập trung, kể cả trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Nga

- ASEAN sẽ tiến hành tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2010.‖ 1

Tóm lại, trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ Nga - ASEAN đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế - thương mại, tạo tiền đề cho hai bên tiếp tục tăng cường và phát triển mối quan hệ tốt đẹp trong giai đoạn tiếp theo. Quan hệ về chính trị, an ninh giữa Nga và ASEAN trong thời gian qua được đánh giá là có tiến bộ nhanh nhất, thể hiện chiến lược đối ngoại hướng Đông của Nga và định hướng tăng cường quan hệ với Đông Á, trong đó có ASEAN. Các nước ASEAN tuy không gần nước Nga về mặt địa lý, nhưng trên góc độ địa chiến lược, Nga có sự liên hệ với ASEAN về lợi ích chính trị, an ninh, kinh tế, hàng hải rất quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay. Do đó, ASEAN ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với sự phát triển của nước Nga và nước Nga không thể xem nhẹ những lợi ích mang ý nghĩa chiến lược tại khu vực này. Thực tiễn phát triển quan hệ Nga với ASEAN trong những năm vừa qua cơ bản đã diễn ra theo xu hướng này. Từ những thành tựu đã qua và xuất phát từ điều kiện thực tế, mối quan hệ về chính trị, an ninh giữa Nga và ASEAN trong tương lai chắc chắn sẽ tiếp tục được tăng cường và phát triển, thực hiện thành công những mục tiêu mang tính chiến lược và đáp ứng thiết thực cho lợi ích của cả hai bên.

Trên lĩnh vực quan hệ kinh tế nói chung, dù mới được quan tâm trong thời gian gần đây nhưng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại Nga - ASEAN đã luôn có những chuyển biến tích cực và kim ngạch thương mại hai chiều đã liên tục tăng trưởng từ năm 2000 đến nay. Kết quả khả quan trong quan hệ

––––––––––––––

1. Đài tiếng nói nước Nga. Nước Nga không chỉ là Châu Âu mà còn là Châu Á.

http://vietnamese.ruvr.ru. Ngày 3/7/2010.

kinh tế, thương mại Nga - ASEAN trong những năm qua đã thể hiện mong muốn của hai bên hướng đến mục tiêu xây dựng mối quan hệ hợp tác toàn diện, trong đó có việc đưa quan hệ kinh tế, thương mại phát triển tương xứng với những tiến bộ mà hai bên đã đạt được trên lĩnh vực chính trị, an ninh. Tuy nhiên, nếu so sánh với tiềm năng và nhu cầu của hai bên thì quan hệ kinh tế, thương mại vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đi vào chiều sâu, cũng như còn kém xa so với mức độ hợp tác trao đổi thương mại với các đối tác chính của mỗi bên như EU, Trung Quốc đối với Nga hay Nhật Bản, Trung Quốc đối với ASEAN. Vì vậy, hai bên cần tìm ra các chính sách hữu hiệu và cần thiết để nhanh chóng vượt qua những thách thức đang là lực cản trong quan hệ kinh tế, thương mại, đưa mối quan hệ này ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào quá trình tăng tốc phát triển kinh tế của Nga và cả các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay.


2.3.3 Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.


Trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục, Nga và Đông Nam Á cũng đã tái khởi động những mối quan hệ đã có trước đây, nhưng đã bị ảnh hưởng sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khi mà khu vực này bị chia cắt thành hai khối đối lập nhau. Liên Xô khi đó chỉ chú trọng quan hệ với các nước Đông Dương và tại những nước này, đã có cả một thế hệ được học tập, rèn luyện tại Nga cũng như các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, những người gắn bó với văn hóa Nga, con người Nga, đồng thời cũng làm cho người Nga hiểu biết thêm về văn hóa khu vực. Qua đó, giáo dục và đào tạo đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc kết nối các nền văn hóa và kết nối con người thuộc các dân tộc khác nhau. Hiện nay, quan hệ hợp tác văn hóa giữa Nga với một ASEAN thống nhất, gồm đầy đủ các quốc gia Đông Nam Á đang không ngừng phát triển. Các trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Nga (Viện Pushkin)

Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với Asean những năm đầu thế kỷ XXI - 9

được mở ra tại nhiều nước ASEAN như Việt Nam, Thailand, Malaysia, thu hút đông đảo người học tếng Nga và tìm hiểu về văn hóa Nga. Những ngày văn hóa Nga tại các nước ASEAN cũng thường xuyên được tổ chức đã giới thiệu những nét văn hóa truyền thống và đặc sắc của dân tộc Nga. Bên cạnh đó, các sản phẩm văn hóa Nga cũng được giới thiệu với đông đảo công chúng ASEAN, góp phần không nhỏ cho sự tăng cường sự hiểu biết về văn hóa của nhau.

Các nước ASEAN cũng tổ chức nhũng ngày văn hóa của mình tại Nga, thúc đẩy ngoại giao văn hóa thông qua việc giới thiệu văn hóa và nghệ thuật Đông Nam Á đến với người Nga… Tất cả những hoạt động này đã góp phần làm tăng cường hình ảnh của Nga tại ASEAN và của ASEAN tại Nga, nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa dân tộc Nga và các dân tộc tại Đông Nam Á, giúp cho tình hữu nghị Nga - ASEAN ngày càng được củng cố và phát triển.

Quan hệ hợp tác về giáo dục đào tạo hiện nay giữa Nga và ASEAN được thực hiện theo hai cơ chế APEC và ASEAN + 1. Năm 2000 - 2001, quỹ APEC về giáo dục đã cung cấp kinh phí cho các nước thành viên trong ba lĩnh vực chính là hợp tác giáo dục, nghiên cứu và trao đổi học giả. Qũy đã tập trung vào chương trình hợp tác giũa các trường và các chương trình giáo dục sử dụng công nghệ thông tin để mở rộng nguồn giáo dục đến mọi đối tượng. Năm 2006, Nga và ASEAN cùng tham gia vào các chương trình giáo dục vùng xa trong khuôn khổ của quỹ APEC. Theo cơ chế ASEAN +1, mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN) đã có sáng kiến thiết lập quan hệ hợp tác khoa học ASEAN - Nga và rất nhiều trường đại học, viện nghiên cứu Nga đã bày tỏ mong muốn tham gia vào các chương trình hoạt động của AUN, trong đó trọng tâm là chương trình hợp tác về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giữa AUN và các cơ sở đào tạo của Nga.

Cũng như Liên Xô trước đây, Nga có thế mạnh rất lớn về giáo dục đào tạo và Nga đang trở thành thị trường giáo dục khá hấp dẫn đối với ASEAN do

nền khoa học cơ bản của Nga được quốc tế đánh giá là có trình độ tiên tiến, trong khi chi phí đào tạo tại Nga lại tương đối thấp. Đối với Việt Nam, ngoài hàng chục ngàn người đã được tiếp nhận nền giáo dục đại học và trên đại học tại Liên Xô trước đây thì hiện nay, đang có hơn 4.000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại Nga, trong đó có hơn 1.200 sinh viên du học theo học bổng do chính phủ Nga cấp. Với Malaysia, theo số liệu của Đại sứ quán Nga tại Malaysia, hiện có tới 2.000 sinh viên Malaysia đang theo học chương trình đại học và trên đại học tại Nga. Các nước khác trong ASEAN như Thailand và Indonesia cũng đang chú trọng tăng cường hợp tác về giáo dục với Nga thông qua việc tăng số lượng học bổng của Nhà nước để du học tại Nga cũng như tạo thuận lợi để sinh viên sang Nga du học theo chế độ tự túc…

Trong tương lai, khi tiếp tục được sự quan tâm hợp tác về đào tạo của chính phủ Nga và các nước ASEAN, số lượng sinh viên từ ASEAN mà chủ yếu là các nước kể trên đến Nga học tập sẽ ngày càng đông đảo. Lực lượng này sẽ là cầu nối quan trọng trong việc tiếp cận các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của Nga, đồng thời là nguồn nhân lực qúy giá cho các doanh nghiệp Nga và ASEAN trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực, góp phần mang lại những lợi ích không những về kinh tế, chính trị mà còn góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân Nga và nhân dân các nước ASEAN.

CHƯƠNG 3‌

VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ NGA - ASEAN


3.1. Quan hệ truyền thống Việt Nam - Liên Xô/ Liên bang Nga


Mối quan hệ hữu nghị Việt - Nga đã có lịch sử lâu dài. Giữa thế kỷ XIX, các tàu thủy của Nga đã cập cảng Sài Gòn. Cách mạng tháng Mười năm 1917 đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người và có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, cách mạng Việt Nam đã đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Liên bang cộng hòa xã hội chủ Xô viết (Liên Xô) đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ năm 1950 và từ đó đến khi Liên Xô tan rã, quan hệ Xô - Việt đã không ngừng củng cố và phát triển, là đồng minh chiến lược của nhau và Liên Xô đã luôn coi Việt Nam như là tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á. Quan hệ Xô - Việt là quan hệ toàn diện trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự… Nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn và chí tình từ chính phủ và nhân dân Liên Xô qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Sau khi hòa bình lập lại, Việt Nam thống nhất, Liên Xô đã tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá. Quan hệ Xô - Việt đã phát triển lên một nấc thang mới qua việc hai bên ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (11/1978). Liên xô đã cung cấp nguồn vốn lớn để giúp Việt Nam công nghiệp hoá đất nước. Nhiều công trình to lớn với sự giúp đỡ về vốn và kỹ thuật của Liên Xô đã được xây dựng như nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Trị An, thủy điện Hòa Bình, cầu Thăng Long… Về mặt an ninh, thông qua Hiệp ước hữu nghị và hợp tác đã hình thành cơ chế đảm bảo an ninh tương hỗ giữa hai nước. Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh và

lập căn cứ không quân và hải quân tại Đà Nẵng, qua đó đã tăng cường sức mạnh và tầm hoạt động của hải quân Xô viết tại khu vực Thái Bình Dương.

Trên lĩnh vực giáo dục và khoa học kỹ thuật, trong giai đoạn 1955 - 1990, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật để quản lý đất nước theo mô hình của Liên Xô. Hàng ngàn sinh viên, cán bộ Việt Nam đã sang Liên Xô học tập và nghiên cứu (xem số liệu tr.76). Đây là lực lượng trí thức quan trọng góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước của Việt Nam cũng như là cầu nối để tăng cường quan hệ hợp tác hai nước Việt - Xô trước đây và Việt - Nga sau này, là một lợi thế rất lớn trong quan hệ Nga - ASEAN mà không một nước ASEAN nào có được.

Từ sau sự kiện Liên Xô tan rã (12/1991), quan hệ Việt Nga đã có những thay đổi rất sâu sắc và có thể chia thành hai thời kỳ như sau:

Thời kỳ từ 1991 - 1999, được chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1991 -1993: Đây là giai đoạn khó khăn nhất của quan hệ Việt - Nga (kế thừa từ quan hệ Việt - Xô trước kia). Quan hệ Việt - Nga lúc này suy giảm mạnh và hầu như bị ngừng trệ. Nguyên nhân chủ yếu là do cả Nga và Việt Nam khi đó đều đang định vị lại hệ thống các lợi ích quốc gia của mình, cũng như sự ưu tiên đối ngoại của từng nước đã trở nên khác biệt nhau trong hoàn cảnh quốc tế mới. Liên bang Nga theo đuổi chính sách đối ngoại ―định hướng Đại Tây Dương‖, đặt quan hệ với các nước tư bản phát triển phương Tây lên hàng đầu. Còn Việt Nam đang coi trọng việc cải thiện quan hệ với các nước láng giềng và chưa xác định được định hướng đối ngoại với đối tác mới là Liên bang Nga sẽ như thế nào. Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến quan hệ Việt - Nga chưa phát triển là vì sự biến đổi nhanh chóng của tình hình quốc tế, mà hệ quả của nó là nhiều mối quan hệ truyền thống không còn nữa, trong khi cơ chế quan hệ kiểu mới không kịp điều chỉnh và thiết lập mới ngay được. Hơn nữa, khoản nợ và chế độ thanh toán nợ của Việt

Nam với Liên Xô cũ mà Nga là người kế thừa hợp pháp cũng là một vật cản đối với quan hệ Việt - Nga trong những năm này.

Giai đoạn 1994 - 1996: Giai đoạn này đánh dấu sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga sau những thất bại của chính sách hướng Tây. Nội dung bao trùm trong sự điều chỉnh chính sách của Nga là lấy định hướng Âu - Á, qua việc cân bằng quan hệ giữa hướng Tây với hướng Đông thay cho ―định hướng Đại Tây Dương‖, nhằm khắc phục tình trạng phiến diện trong quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, đồng thời Nga bắt đầu chú trọng hơn trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các nước Châu Á

- Thái Bình Dương, với các nước thuộc CIS (do điều kiện lịch sử và ảnh hưởng của Nga) và những nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN. Triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng Âu - Á, khu vực Đông Nam Á ngày càng thu hút sự chú ý của Liên Bang Nga. Sự biến đổi to lớn và quan trọng trong khu vực và sự cải thiện quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN, cùng sự phát triển rất năng động của khu vực này đã làm thay đổi cách nhìn của Nga đối với ASEAN. Nga đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển quan hệ đa phương với ASEAN như: trở thành một trong 18 nước tham gia Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) vào tháng 4/1994 và là một trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN (7/1996). Quan hệ Nga - Việt trong giai đoạn này từng bước được cải thiện và chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Hai bên đã ký ―Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa Liên bang Nga và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam‖ vào tháng 6/1994, thay cho Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Xô - Việt đã hết hiệu lực. Sự kiện quan trọng này đã mở ra giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước, giai đoạn quan hệ bình đẳng, hai bên cùng có lợi và Hiệp ước này đã trở thành cơ sở pháp lý để hai nước Việt, Nga phát triển quan hệ mới, có thay đổi về chất so với quan hệ Việt - Xô trước kia.

Giai đoạn 1997 -1999: Đây là giai đoạn quan hệ Việt - Nga có bước phát triển mới về chất, đánh dấu qua việc viếng thăm lẫn nhau của lãnh đạo hai nước, ký kết các văn kiện hợp tác quan trọng. Tháng 11/1997, Thủ tướng Liên bang Nga V. Chernomordine đã thăm Việt Nam, tạo dấu mốc cho quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước, thể hiện sự quan tâm của Nga đối với Đông Nam Á nói chung và với Việt Nam nói riêng. Tại cuộc viếng thăm này, Nga đã tuyên bố quan hệ với Việt Nam là quan hệ đối tác chiến lược. Tháng 8/1998, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã thăm chính thức Nga. Trong buổi tiếp Chủ tịch nước Việt Nam, Tổng thống Liên bang Nga đã khẳng định lại quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước như sau: ―Không ai, không có gì và không có thế lực nào có thể ngăn cản sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước vì lợi ích của mỗi nước và hòa bình thế giới.‖ Hai bên đã ký tuyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga, Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định về hợp tác xây dựng và vận hành nhà máy lọc dầu Dung Quất, Hiệp định thanh toán giữa hai ngân hàng và thỏa thuận hợp tác giữa hai Bộ tư pháp. Những văn kiện này đã mở ra giai đoạn hợp tác mạnh mẽ hơn, đặc biệt là về thương mại và đầu tư giữa hai nước, tuy bước đầu vẫn còn một số hạn chế nhất định.

Thời kỳ từ năm 2000 đến nay:

Trong thời kỳ này, nước Nga đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - chính trị, tiềm lực về kinh tế và quân sự gia tăng nhanh chóng. Việt Nam cũng ở trong giai đoạn phát triển ổn định, những điều kiện thuận lợi từ môi trường kinh tế xã hội của hai nước đã tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển quan hệ Việt - Nga những năm đầu thế kỷ XXI. Hai bên đã trao đổi các đoàn cấp cao và ký kết nhiều văn kiện quan trọng. Tháng 9/2000, thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm chính thức Liên bang Nga và ký Hiệp định giữa chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga đối với các khoản tín dụng trước đây, cùng các hiệp định, nghị định thư khác về hợp tác văn hóa, giáo dục, đào tạo… đã thúc đẩy sự phát triển toàn diện quan hệ hai nước, đặc biệt là quan

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/05/2022