Trình Độ Học Vấn Của Lực Lượng Lao Động Năm 2008



Nam

22.065

22.754

23.430

24.097

24.640

25.336

Nữ

21.190

21.631

22.149

22.611

23.768

23.966

Thành thị

10.549

11.071

11.563

11.859

13.506

14.790

Nông thôn

32.706

33.314

34.016

34.849

34.903

34.510

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay - 7

Nguồn: Kết quả điều tra lao động việc làm hàng năm của Tổng cục Thống kê.


Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện: năm 2001, tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm 17,05% (theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), đến năm 2009, tỷ lệ này là 24,7%; so với các nước trên thế giới có cùng mức phát triển, trình độ học vấn của lao động Việt Nam tương đối cao (năm 2008, tỷ lệ lao động chưa biết chữ là 4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là 12,1%, tốt nghiệp tiểu học là 28,7%, tốt nghiệp THCS là 31,9% và tốt nghiệp THPT là 23,3%); lao động Việt Nam có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến, không ngừng tiếp thu khoa học, kỹ thuật sản xuất và quản lý hiện đại [63].

Bảng 2.2: Trình độ học vấn của lực lượng lao động năm 2008

(Đơn vị %)



Cấp học

Toàn quốc

Thành thị

Nông thôn


100,0

100,0

100,0

Chưa đi học

4,0

1,3

4,9

Chưa tốt nghiệp tiểu học

12,1

6,1

14,2

Tốt nghiệp tiểu học

28,7

21,6

31,3

Tốt nghiệp trung học cơ sở

31,9

25,9

34,1

Tốt nghiệp trung học phổ thông


23,3


45,1


15,5

Nguồn: Kết quả điều tra biến động dân số, nguồn lao động và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2008 của Tổng cục Thống kê


Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là sự gia tăng của các ngành công nghiệp và xây dựng, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Năm 1999, tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp của cả nước là 64,1%, công nghiệp - xây dựng là 12,4% và dịch vụ là 23,5%, đến năm 2009, tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp là 47,6% (giảm 16,5 điểm phần trăm), trong công nghiệp và xây dựng là 21,8% (tăng 9,4 điểm phần trăm) và dịch vụ là 30,6% (tăng 7,1 điểm phần trăm) (xem bảng 2.3) [62].

Bảng 2.3: Tỷ trọng lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế qua hai cuộc điều tra 1/7/1999 và 1/9/2009

(Đơn vị: %)



Năm

1/7/1999

1/9/2009

Tổng số

100,0

100,0

Nông, Lâm, Ngư nghiệp

64,1

47,6

Công nghiệp và xây dựng

12,4

21,8

Thương Mại - Dịch vụ

23,5

30,6

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam 1/9/2009 của Tổng cục Thống kê.

Xét theo vị thế công việc, lao động Việt Nam chủ yếu vẫn là lao động tự làm từ 53,3% năm 2007 giảm xuống 44,7% năm 2009 (giảm 9 điểm phần trăm), chủ yếu trong khu vực nông nghiệp nông thôn, do đó, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế năm 2008- 2009, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực lao động - việc làm ở Việt Nam là đáng kể đối với những người lao động thời vụ, lao động tự do, lao động dịch vụ theo ngày, giờ. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương chiếm 1/3 tổng số lao động đang làm việc và đó có sự gia tăng từ 30% năm 2007 lên 33,4% năm 2009, phản ánh thị trường lao động nước ta


ngày càng phát triển theo hướng tích cực, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động được đảm bảo hơn.

Bảng 2.4: Tỷ trọng lao động có việc làm theo vị thế làm việc qua hai cuộc điều tra 1/8/2007 và 1/9/2009

(Đơn vị %)




1/8/2007

1/9/2009


Tổng số

Tỷ trong lao động nữ


Tổng số

Tỷ trong lao động nữ

Tổng số

100,0

49,4

100,0

48,6

Làm công ăn lương

30,0

40,2

33,4

40,0

Chủ cơ sở sản xuất kinh doanh

3,2

41,1

4,8

32,6

Tự làm

53,5

54,1

44,7

51,0

Lao động gia đình

12,9

53,5

16,8

64,0

Xã viên hợp tác xã

0,2

26,9

0,1

29,3

Người học việc

0,2

36,7

0,2

31,3

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam 1/9/2009 của Tổng cục Thống kê.

2.1.1.2. Thực trạng thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay


Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, thị trường lao động mới hình thành, phần đông lao động tập trung ở khu vực nông thôn và làm việc trong nông nghiệp, do đó, một trong những nét đặc thù của thị trường lao động nước ta là thất nghiệp cao ở khu vực thành thị và thiếu việc làm chủ yếu ở khu vực nông thôn. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp chung của Việt Nam khá thấp (tỷ lệ thất nghiệp chung dao động trong khoảng trên dưới 2,2%, năm 2009, tỷ lệ này là 2,8%).


Bảng 2.5: Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam (2004-2009)



Tiêu thức

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Tổng số người thất nghiệp (1000 người)

926

929

997

1.030,3

1.080,4

1.287,0

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

2,14

2,14

2,19

2,52

2,19

2,8

Nguồn: Kết quả điều tra lao động, việc làm hàng năm của Tổng cục Thống kê.


Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị có xu hướng giảm dần, từ 5,6% năm 2004 xuống còn là 4,6% năm 2009, nhưng lại có xu hướng tăng ở khu vực nông thôn năm 2004 là 1,1%, đến năm 2009 đó tăng gấp đôi lên 2,1%. Thực tế này cho thấy, hiện nay và trong những năm tới, nước ta cần phải quan tâm đến cả tình trạng thất nghiệp ở nông thôn, nhất là tình trạng đất nông nghiệp dần bị thu hẹp do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra ở nước ta.

Bảng 2.6: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam phân theo khu vực thành thị và nông thôn (2004- 2009)


Tiêu thức

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Thành thị (%)

5,6

5,31

4,82

4,6

4,7

4,6

Nông thôn (%)

1,1

1,1

1,3

1,6

2,0

2,1

Nguồn: Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê.


Trong những năm qua thất nghiệp ở thành thị tăng về số tuyệt đối, nhưng tỷ lệ thất nghiệp không đổi; tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn có xu hướng tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp diễn ra ở hầu hết các địa phương, làm cho nông dân mất đất sản xuất do lấy đất làm các khu công nghiệp…, năm 2007 tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 4,8% thì đến năm 2009 là 6,3%.

Bảng 2.7: Tỷ lệ thất nghiệp thành thị và thiếu việc làm nông thôn




Thất nghiệp ở thành thị

Thiếu việc làm ở nông thôn

Số tuyệt đối (1000 người)

Tỷ lệ (%)

Số tuyệt đối (1000 người)

Tỷ lệ (%)

2007

1.030,3

4,6

2.256,4

4,8

2008

1.080,4

4,7

1.428,5

5,1

2009

1.287,0

4,6

2.507,0

6,3

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động, việc làm của Tổng cục Thống kê.


Bảng 2.8: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam phân theo giới tính (2004- 2009)



Tiêu thức

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Nam (%)

1,86

1,99

2,18

2,44

2,0

2,7

Nữ (%)

2,44

2,29

2,44

2,61

2,8

2,9

Nguồn số liệu: Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê.


Xét tỷ lệ thất nghiệp phân theo giới tính, số liệu bảng cho thấy mặc dù nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong cơ cấu lao động nhưng tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ lại cao hơn nam. Năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp của nữ là 2,44%, trong khi của nam chỉ là 1,86%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nam, nữ đều có xu hướng tăng lên, năm 2009 nam là 2,7%, nữ là 2,9%, Riêng năm 2009, nữ thất nghiệp chiếm trên 50,16% tổng số người thất nghiệp. Lao động thất nghiệp trong độ tuổi từ 20-29 chiếm 47,5% trên tổng số lao động thất nghiệp, trong đó nữ chiếm 49% đây được coi là nhóm đối tượng phải giải quyết mâu thuẫn giữa vai trò sinh đẻ và tham gia lao động. Do đó, nhóm lao động nữ ở độ tuổi này thường bị thất nghiệp và thời gian thất nghiệp cũng dài hơn những nhóm lao động khác.

Bên cạnh đó, theo kết quả điều tra lao động, việc làm 1/9/2009 của Tổng cục Thống kê, thất nghiệp ở Việt Nam chủ yếu ở độ tuổi trẻ, tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 15-

24. Tỷ trọng thất nghiệp của nhóm tuổi 15-19 là 17,4%, nhóm tuổi 20-24 là 26,6%. Sở dĩ độ tuổi này thất nghiệp cao, vì ở độ tuổi này là bước vào giai đoạn học sinh mới tốt nghiệp trung


học cơ sở hoặc trung học phổ thông hoặc các trường dạy nghề, cao đẳng hay đại học mà chưa tìm được việc làm ngay. Điều này có thể do lao động trẻ khó tiếp cận với thông tin việc làm, hoặc do trình độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu công việc, cũng có thể do tâm lý "kén việc","nhẩy việc" của bản thân họ tạo nên. Cũng theo kết quả điều tra cho thấy mặc dù lứa tuổi từ 24 trở xuống có tỷ trọng thất nghiệp cao, nhưng thời gian thất nghiệp của họ phần lớn dưới 6 tháng. Thời gian tìm việc làm của các nhóm tuổi lớn hơn có xu hướng kéo dài hơn. Điều đó phản ánh một khía cạnh linh hoạt của thị trường lao động và sự thích ứng của thế hệ lao động mới đối với thị trường lao động. Tình trạng thất nghiệp cao ở nguồn lao động trẻ dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn nhân lực, chi phí đào tạo của xã hội, của gia đình và bản thân người lao động, gây khó khăn cho cuộc sống của họ cũng như gây sức ép lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay có xu hướng càng ở vùng kinh tế trọng điểm, càng dễ thất nghiệp. ở các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng thành thị tuy quy mô đầu tư lớn, tốc độ tăng trưởng cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp trung bình trong cả nước và cao hơn hẳn so với các vùng kinh tế chậm phát triển. Thể hiện rõ nét về tỷ lệ thất nghiệp cao năm 2009 là ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, với các tỷ lệ tương ứng là 4,3%; 5,1% và 4,6%. Nguyên nhân là do các vùng kinh tế trọng điểm giữ vị trí đứng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ tiên tiến, cho nên đòi hỏi chất lượng lao động cao, trong khi đó không ít ngành nghề đào tạo lại không phù hợp với nhu cầu của thị trường, dẫn đến lao động không có nghề phù hợp, khó tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, dân số trẻ di dân tìm kiếm việc làm ở những vùng này nhiều nhất, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cũng tương đối cao, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này cũng rất cao.

Bảng 2.9: Tỷ lệ thất nghiệp thành thị chia theo vùng lãnh thổ


(Đơn vị: %)


Năm

Tiêu chí

2004

2005

2006

2007

2008

2009



Cả nước

5,60

5,31

4,82

4,6

4,7

2,8

Đồng bằng sông Hồng

6,03

5,61

6,42

5,74

5,4

4,3

Đông Bắc

5,45

5,12

4,32

3,97

4,2

3,2

Tây Bắc

5,30

4,91

3,89

3,42

4,2

3,2

Bắc Trung Bộ

5,35

4,98

5,5

4,92

4,8

5,0

Nam Trung Bộ

5,70

5,52

5,36

4,99

4,8

5,0

Tây Nguyên

4,53

4,23

2,38

2,11

2,5

3,0

Đông Nam Bộ

5,92

5,62

5,47

4,83

4,9

5,1

Đồng bằng sông Cửu Long

5,03

4,87

4,52

4,03

4,1

4,6

Nguồn: Kết quả điều tra lao động, việc làm hàng năm của Tổng cục Thống kê.


Tỷ trọng lao động thất nghiệp chưa qua một trường lớp đào tạo (bao gồm nhóm không có trình độ chuyên môn kỹ thuật và nhóm công nhân kỹ thuật không có bằng) tăng 4,8 điểm phần trăm, từ 70,0% lên 74,8% trong khi tỷ trọng của các nhóm khác đều giảm. Do vậy số lao động thất nghiệp tăng lên trong năm qua chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua một loại hình đào tạo. Tình trạng thiếu công nhân có trình độ kỹ thuật cao ở các khu công nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn là rất phổ biến.

Bảng 2.10: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động thất nghiệp qua hai cuộc điều tra 1/8/ 2007 và 1/9/2009

(Đơn vị tính: %)




TT


Tổng số

1/8/2007

1/9/2009

100,0

100,0


1

Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật


65,9


70,5



2

Công nhân kỹ thuật không có bằng

4,1

4,3

3

Sơ cấp nghề

4,8

4,0

4

Trung cấp nghề

2,4

3,4

5

Trung học chuyên nghiệp

10,7

7,7

6

Cao đẳng nghề

4,8

0,4

7

Cao đẳng

4,8

2,6

8

Đại học trở lên

7,3

7,1

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2009 của Tổng cục Thống kê.


Thất nghiệp đã trở thành vấn đề cả xã hội quan tâm. Thất nghiệp có thể dẫn đến những ảnh hưởng khó lường về kinh tế và xã hội. Những ảnh hưởng này rất khó định lượng nhưng tác động tiềm ẩn của chúng có thể thấy rõ qua một loạt các hậu quả có thể xảy ra như sự phản ứng của người lao động đối với những thay đổi về cơ cấu của doanh nghiệp với nỗi lo âu rằng một số người có thể mất việc và như vậy họ sẽ không còn nguồn để sinh sống. Điều này sẽ dẫn đến lực lượng lao động đang có việc làm không ủng hộ và hợp tác trong việc áp dụng những công nghệ mới vì những lý do nêu trên. Tỷ lệ thất nghiệp lớn có thể sẽ gây áp lực về chính trị và bất ổn về xã hội khi một số lớn người lao động bị mất việc làm và do vậy có thể dẫn đến xu hướng lạm dụng các chế độ bảo hiểm xã hội (ví dụ kéo dài thời gian hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp ốm đau bằng tiền, chế độ tai nạn lao động hoặc hưởng chế độ hưu sớm) để bù đắp mất mát thu nhập khi chưa có chế độ hỗ trợ đối với người bị thất nghiệp. Khi một đất nước chưa có hệ thống bảo trợ thích hợp đối với người lao động bị mất việc làm có thể sẽ phải chịu áp lực đối với việc thành lập các chương trình tốn kém và ít hiệu quả hơn để bảo vệ họ.

Một chính sách BHTN thỏa đáng kết hợp chặt chẽ với các biện pháp thị trường lao động sẽ đóng góp tích cực vào việc giảm ảnh hưởng của thất nghiệp đối với những người tham gia bảo hiểm. BHTN có thể được sử dụng như một phần của chiến lược việc làm tạo cho người bị thất nghiệp cơ hội tìm được việc làm mới mà họ nghĩ rằng họ có triển vọng.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 30/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí