Kết Quả Thực Hiện Chính Sách Bảo Hiểm Thất Nghiệp Từ 2009 Đến Nay


5. Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về BHTN và quản lý quỹ BHTN.

6. Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về BHTN.


7. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.


+ Trách nhiệm của BHXH Việt Nam:


1. Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHTN; hướng dẫn thủ tục thu, chi BHTN đối với người lao động, người sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN.

2. Tổ chức thu BHTN.


3. Chi trả trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm.


4. Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.


5. Quản lý, sử dụng quỹ BHTN theo quy định của pháp luật.


6. Thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHTN theo quy định của pháp luật.

7. Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán về BHTN.


8. ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong quản lý BHTN; lưu trữ hồ sơ của người tham gia BHTN theo quy định.

9. Định kỳ 6 tháng, báo cáo Hội đồng quản lý BHXH về tình hình thực hiện BHTN. Hằng năm, báo cáo Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về tình hình thực hiện thu, chi, quản lý và sử dụng quỹ BHTN.

10. Cung cấp đầy đủ và kịp thời thụng tin về việc đóng, hưởng chế độ, thủ tục thực hiện BHTN khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu.

11. Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.


12. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện BHTN theo thẩm quyền.


13. Thực hiện trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.


Hiện nay, bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHTN đang do hai ngành là Lao động - Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam cụ thể như sau:

- BHXH được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương theo 3 cấp và có nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện thu, chi và quản lý BHTN, việc này ngành BHXH tổ chức thực hiện rất thuận lợi vì đã có sẵn con người, cơ sở vật chất, có kinh nghiệm trong việc quản lý các quỹ bảo hiểm, có mạng lưới tổ chức thu chi đến tận cấp huyện; đối tượng tham gia BHTN trùng với đối tượng tham gia BHXH và tất cả đã được cấp sổ BHXH.

- Ngành Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN, ở Trung ương là BHTN trực thuộc Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và ở địa phương là Phòng BHTN thuộc Trung tâm giới thiệu việc làm, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nên việc chỉ đạo từ trên Trung ương xuống các địa phương đã gặp phải những khó khăn nhất định. Về tổ chức thì chỉ đạo chuyên môn theo ngành dọc từ Trung ương xuống, nhưng về con người, cơ sở vật chất lại thuộc ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, do đó rất khó trong việc chỉ đạo và quản lý. Mô hình cụ thể xem ở hình sau:


Quản lý Nhà nước về BHTN:

- Chính phủ;

- Bộ lao động- Thương binh và xã hội;

- Bộ Tài chính…

- UBND các cp

Bộ LAO ĐộNG - THƯƠNG BINH

Và Xã HộI


CụC VIệC LàM BảO HIểM THấT NGHIệP


Sở LAO ĐộNG CáC TỉNH, THàNH PHố

Phòng Bảo hiểm

HĐQLBHXHVN


BHXH VIệT NAM


BHXH CáC TỉNH THàNH PHố

- Phòng Tiếp nhận quản lý hồ sơ;

- Phòng thu;

- Phòng

Tổ chức thực hiện chính sách BHTN:


thất thuộc giới làm; làm; nghề

nghiệp

Trung thiệu Phòng Phòng

tâm việc Việc dạy

PHòNG LAO ĐộNG QUậN, HUYệN (ĐƯợC HợP ĐồNG Uỷ THáC)

hoạch - chính;

Kế Tài

- Phòng chế độ, chính sách.

- Phòng cấp sổ thẻ


BHXH CấP QUậN HUYệN

Thanh tra chuyên ngành vBHTN:

Thanh tra Lao động- Thương binh và Xã hi







Mo hình 2.1: Mô hình tổ chức thực hiện BHTN hiện nay


2.2.2.2. Kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ 2009 đến nay


a. Về thu BHTN


Chính sách BHTN được triển khai thực hiện trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cũng giống như các quốc gia khác nền kinh tế của nước ta bắt đầu gặp một số khó khăn như giá cả tăng cao, tốc độ tăng trưởng giảm, tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bị đình trệ dẫn đến tình trạng công nhân bị mất việc và thiếu việc làm. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của người lao động. Đến cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới bước đầu phục hồi, mặc dù các dấu hiệu chưa rõ ràng, thêm vào đó Chính phủ đã có nhiều chính sách điểu chỉnh nền kinh tế vĩ mô, cho các doanh nghiệp vay vốn lưu động với lãi suất thấp, điều chỉnh giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, cho vay tiêu dùng, cho vay học nghề đối với lao động mất việc làm,... đã tạo điều kiện cho thị trường lao động Việt Nam phục hồi trở lại, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong các tháng cuối năm tăng cao, theo đó tỷ lệ lao động mất việc làm cũng giảm đi nhiều.

Năm 2009 là năm đầu tiên nước ta thực hiện chính sách BHTN đối với người lao động, nhưng do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp được lùi thời hạn đóng BHTN đến 1/7/2009, do đó đã ảnh hưởng đến việc thu BHTN trong năm 2009.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, năm 2009 có 5.992.940 người tham gia BHTN, tổng số thu là 2.340 tỷ đồng (chưa tính 1% từ Ngân sách Nhà nước); năm 2010


tính đến tháng 9 cả nước có 6.627.310 người tham gia BHTN với tổng số thu là 2.222 tỷ đồng (chưa tính 1% từ ngân sách nhà nước) cụ thể ở phụ lục 1 kèm theo.

Bảng 2.12: Tình hình thu BHTN năm 2009 và 9 tháng đầu năm 2010




TT


Vùng

Năm 2009

Tính đến tháng 9/2010

Số người (người)

Số tiền (triệu đồng)

Số người (người)

Số tiền (triệu đồng)

1

Đồng bằng sông Hồng

1.529.622

578.713

1.680.217

507.262

2

Đông Bắc

483.549

185.511

514.748

184.625

3

Tây Bắc

101.302

38.356

102.719

38.772

4

Bắc Trung Bộ

724.388

266.016

830.348

295.259

5

Tây nguyên

121.835

43.483

185.180

70.597

6

Đông Nam Bộ

2.564.688

1.069.962

2.689.600

943.552

7

Đồng Long

bằng

sông

Cửu

467.556

158.385

624.498

182.658


Tổng cộng

5.992.940

2.340.426

6.627.310

2.222.725

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay - 10

Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam.


Đến tháng 9 năm 2010 cả nước có 6,6 triệu người tham gia BHTN, so với lực lượng lao động có việc làm của Việt Nam là 48 triệu người (theo điều tra lao động, việc làm 1/9/2009 của Tổng cục Thống kê) mới chỉ chiếm 13%, trong khi đó chúng ta còn khoảng gần 40 triệu lao động cũng có nhu cầu được bảo vệ khi thất nghiệp. Nếu so sách với tỷ lệ lao động làm công ăn lương hiện nay có khoảng 16 triệu lao động (chiếm 33,4% lực lượng lao động có việc làm) thì số người tham gia BHTN mới chỉ chiếm 41%, trong khi đó chúng ta chỉ có khoảng 2 triệu người không thuộc đối tượng tham gia BHTN, do đó còn khoảng hơn 7 triệu lao động chưa được tham gia BHTN chủ yếu trong các doanh


nghiệp, tổ chức... sử dụng dưới 10 lao động. Trong thực tế thì không phải doanh nghiệp nào cũng có quy mô sản xuất sử dụng từ 10 lao động trở lên. Hiện nay chúng ta đang có trên 200.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chủ yếu là vừa và nhỏ. Điều đó chứng tỏ chính sách BHTN của Việt Nam chưa bao phủ được hết các đối tượng lao động hiện nay, vì vậy nhu cầu tham gia BHTN của người lao động còn rất lớn [62].

Việc chỉ quy định các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên thuộc đối tượng đóng BHTN, người lao động có giao kết hợp đồng lao động từ đủ 12 tháng trở lên mới là đối tượng tham gia BHTN, những doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động, người lao động có giao kết hợp đồng lao động dưới 12 tháng thì không thuộc đối tượng tham gia BHTN là không hợp lý. Đây là kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp nhỏ trốn đóng BHTN và trên thực tế họ chỉ đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cho bộ máy hành chính văn phòng của đơn vị vào khoảng 9 người (dưới 10 người). Khi có các đoàn kiểm tra của Bảo hiểm xã hội tỉnh hoặc các ngành chức năng kiểm tra thì đơn vị cũng chỉ xuất trình những hợp đồng lao động của những cán bộ văn phòng đã đăng ký. Khi hỏi đến các hợp đồng lao động khác thì đơn vị sử dụng lao động biện lý do về địa bàn kinh doanh các ngành nghề, chỉ sử dụng lao động theo thời vụ... nên họ chỉ ký hợp đồng dưới 3 tháng hoặc thuê nhân công tại chỗ để thi công công trình cho đến khi hoàn thành và nguồn nhân công tại chỗ vừa rẻ và không mất thời gian đi lại. Như vậy, đó là một thiệt thòi lớn về mặt chính sách bảo hiểm xã hội cũng như BHTN đối với người lao động. Điều đáng lo ngại là khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản hoặc người lao động không có việc làm và nghỉ việc thì chế độ trợ cấp mất việc làm tại các doanh nghiệp đó đối với người lao động sẽ ra sao? Có được đảm bảo hay không và nếu thực hiện thì đó cũng là gánh nặng đối với doanh nghiệp vì không có sự chia sẻ trách nhiệm của người lao động và Nhà nước như chính sách BHTN. Ngoài việc trốn không tham gia BHTN cho mọi người lao động tại doanh nghiệp thì việc chậm đóng BHTN cũng là một vấn đề cần quan tâm. Đã có rất nhiều trường hợp người lao động khi mất việc, nhưng vì chủ doanh nghiệp không đóng kịp thời hoặc nợ đọng thường xuyên BHXH nói chung và BHTN nói riêng nên gây khó khăn cho việc chốt sổ BHTN để giải quyết các quyền lợi BHTN tiếp theo.


Nhìn vào bảng số liệu thu BHTN của năm 2009 và 9 tháng đầu năm 2010 ta thấy lao động tham gia BHTN không đều giữa các vùng, chủ yếu tập trung ở hai vùng kinh tế trọng điểm là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, cụ thể năm 2009 hai vùng này chiếm 68%, đến hết tháng 9/2010 là 66% số lao động tham gia BHTN trong cả nước; số người tham gia BHTN năm 2010 cũng tăng lên đang kể (643.370 người) so với năm 2009.

Việc xác đinh đúng đối tượng tham gia BHTN cũng còn nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong các cơ quan sự nghiệp nhà nước (còn chưa phân biệt được đâu là công chức hay viên chức) và doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, tập đoàn nhà nước (một số chức danh như Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, các thành viên Hội đồng quản trị…); nhận thức của người lao động và chủ sử dụng lao động về chính BHTN còn hạn chế, người lao động chưa hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, nhiều người lao động cho rằng cứ thất nghiệp là được hưởng trợ cấp và được hưởng 1 lần là 3 tháng trợ cấp; một số chưa biết điều kiện để được hưởng bảo hiểm thất nghiệp nên số lượng đăng ký thất nghiệp nhiều, nhưng đa số lại chưa đủ điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

b. Chi trả chế độ BHTN.


Chính sách BHTN được quy định trong Luật BHXH và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009, theo quy định của Luật thì từ ngày 1/1/2010 mới có những lao động thất nghiệp đầu tiên đủ điều kiện (nếu đã đóng BHTN đủ 12 tháng và bị thất nghiệp) hưởng chế độ BHTN.

Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về tình hình tiếp nhận và giải quyết các chế độ BHTN 8 tháng đầu năm 2010 (tính đến hết ngày 30 tháng 08 năm 2010) trên toàn quốc như sau:

- Tổng số người đến đăng ký thất nghiệp: 122.521 người


- Số người thất nghiệp đã nộp hồ sơ hưởng BHTN: 97.481 người


- Số người thất nghiệp đã có Quyết định hưởng BHTN: 83.518 người


- Số người thất nghiệp có Quyết định hưởng BHTN 1 lần: 1.968 người


- Số người thất nghiệp đề nghị chuyển hưởng BHTN: 15.513 người


- Số người tạm dừng hưởng BHTN: 4.357 người


- Số người chấm dứt hưởng BHTN: 24.789 người


- Số người được tư vấn giới thiệu việc làm: 72.692 người


- Số người được hỗ trợ học nghề: 94 người


Trong số những người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng thì dưới 24 tuổi có 19.994 người, chiếm 24%; từ 25 - 40 tuổi có 51.135 người, chiếm 61,%; trên 40 tuổi có 12.389 người, chiếm 15%; nam giới có 34.120 người, chiếm 41%; nữ giới có 49.398 người, chiếm 59%. Một số địa phương có nhiều người đăng ký thất nghiệp và đề nghị hưởng BHTN là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Long An và Hà Nội (Xem phụ lục 2).

Trong 8 tháng đầu năm 2010 đã có 83.518 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng, và có 1.968 người hưởng trợ cấp thất nghiệp một lần với với tổng số tiền là 248.338 triệu đồng, đây là hai khoản chi trả chính trong chính sách BHTN. Đặc biệt khoản chi trả trợ cấp thất nghiệp một lần là không hợp lý, vì trợ cấp thất nghiệp là chi trả cho người bị thất nghiệp, còn những người được hưởng trợ cấp một lần là những người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng mà tìm được việc làm thì vẫn được hưởng một lần những tháng còn lại. Hơn nữa, đây là kẽ hở để người lao động lợi dụng và thực tế đã có hiện tượng sử dụng chính sách này như là một cộng cụ thỏa thuận giữa chủ sử dụng lao động và người lao động để tăng thu nhập cho người lao động, ví dụ như chủ sử dụng lao động cho người lao động nghỉ việc (nhân dịp Tết Nguyên đán) và đăng ký thất nghiệp. Sau đó người lao động lại đến làm việc và vẫn được nhận đủ khoản tiền trợ cấp thất nghiệp (kể cả phần trợ cấp một lần).

Xét số người đến đăng ký thất nghiệp tại các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội các tỉnh thành phố thì có 122.521 người so với số lao động tham gia BHTN hiện nay là 6.627.310 người, thì số người thất nghiệp chỉ chiếm


1,2% thấp hơn rất nhiều tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước năm 2009 là 2,8% vì số lao động tham gia BHTN là những người có việc làm và thu nhập ổn định nhất.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, 8 tháng đầu năm 2010 đã tiếp nhận và chi trả cho các đối tưởng đủ điều kiện hưởng BHTN là 273.952 triệu đồng trên toàn quốc là:

- Chi trả trợ cấp thất nghiệp hàng tháng : 234.239 triệu đồng.


- Chi trả trợ cấp thất nghiệp một lần : 14.099 triệu đồng


- Chi trả hồ trợ tìm kiếm việc làm : 14,927 triệu đồng


- Chi trả hỗ trợ học nghề : 102 triệu đồng


- Chi mua thẻ Bảo hiểm y tế : 10.540 triệu đồng


Tính đến tháng 9/2010 quỹ BHTN đã lên tới 6.844.726 triệu đồng (nếu tính đủ cả 1% hỗ trợ từ ngân sách nhà nước), trong khi đó chúng ta mới chi trả 273,952 triệu đồng, tuy nhiên do mới tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHTN chưa được 2 năm, vì vậy thời kỳ đầu có rất ít đối tượng đủ điều kiện hưởng BHTN, nhưng theo dự báo thì trong thời gian tới số đối tượng đủ điều kiện hưởng chính sách BHTN sẽ rất lớn, đặc biệt là vào trước và sau dịp nghỉ tết Nguyên đán, do người lao động thường có tâm lý nhảy việc, nghỉ về quê ăn tết,…sau đó đăng ký hưởng trợ cấp BHTN cùng với đề nghị thanh toán tiền BHXH một lần.

Cũng theo Báo cáo, trong 8 tháng đầu năm 2010 cả nước có 83.518 người thất nghiệp có quyết định hưởng trợ cấp cấp thất nghiệp, thì đã có 87% số người hưởng trợ cấp thất nghiệp (72.692 người) được tư vấn giới thiệu việc làm với tổng chi phí là 14.927 triệu đồng. Trong khi đó số người được hỗ trợ học nghề rất ít, chỉ có 94 người, chiếm 0.11% số người hưởng trợ cấp thất nghiệp. Sở dĩ số người được hỗ trợ đào tạo thấp như vậy là vì sau khi được tư vấn, giới thiệu việc làm mà vẫn chưa có việc làm, người thất nghiệp có nhu cầu học nghề thì phải làm đơn theo mẫu gửi Trung tâm giới thiệu việc làm và thời gian đao tạo nghề theo quy định là không quá 6 tháng.

2.3. Đánh Giá CHUNG

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 30/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí