Về Mối Quan Hệ Giữa Chế Tài Buộc Thực Hiện Đúng Hợp Đồng Và Các Loại Chế Tài Khác.

gây ra. Vì thế, chế tài phaṭ vi pham

có thể áp dun

g cho dù chưa có thiêṭ haị xảy ra

hoăc

thiêṭ haị nhỏ hơn mứ c phaṭ vi pham

. Trong khi đó, chế tài bồi thường thiêṭ hai

nhằm bù đắp tổn thất nên sẽ chỉ bằng thiêṭ haị đã xảy ra hoăc

thâm

chí nhỏ hơn

thiêṭ haị đã xảy ra. Các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mình để có thể thỏa thuận những điều khoản hợp lý nhất . Nhưng ở đây có sự không thống nhất giữa quy định về chế tài phạt vi phạm theo quy định của Luật Thương mại 2005 và chế tài phạt vi phạm trong Bộ luật Dân sự 2005. Theo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Bộ luật Dân sự 2005 thì: “trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm” (khoản 3 điều 422 Bộ luật dân sự 2005). Điều này có nghĩa là chế định bồi thường thiệt hại chỉ được đặt ra trong trường hợp các bên có thỏa thuận trước.

Đối với doanh nghiệp khi thỏa thuận về những khoản bồi thường hay tiền phạt trong hợp đồng, cần thỏa thuận rõ và tách biệt đâu là tiền bồi thường, đâu là tiền phạt. Bởi nếu không rõ ràng hoặc mô tả rằng đó là khoản tiền phạt vi phạm mà số tiền phạt vượt quá mức quy định thì phần vượt quá như vậy không có giá trị pháp lý. Mặt khác, nếu cho rằng đó là một khoản tiền bồi thường mà các bên thỏa thuận trước thì cũng không phù hợp vì Luật Dân sự và Luật Thương mại hiện hành không quy định về trường hợp các bên được ấn định một khoản tiền bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 9

3.2. Về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các loại chế tài khác.

Theo Luật thương mại Việt Nam thì nếu không có thỏa thuận trước, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Khoản 1, Điều 225 Luật thương mại 2005 quy định: “bên có quyền lợi bị vi phạm không được áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc hủy hợp đồng.” Theo tinh thần của luật này thì vi phạm đó đã được áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì

các bên không thể viện một lý do nào khác để tiếp tục bắt bên kia phải bồi thường thiệt hại hay nộp phạt cho chính vi phạm đã được giải quyết xong. Ví dụ như không thể bắt bên bán khi giao hàng kém phẩm chất phải nộp phạt 5% trị giá lô hàng đó, ngoài ra phải tiến hành sửa chữa khuyết tật hay thay thế hàng. Còn trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định, Khoản 2, Điều 299 của Luật thương mại Việt Nam quy định tiếp: “bên có quyền lợi bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.” Điều này có nghĩa là chỉ khi bên kia tuyên bố hoặc thông báo rằng anh ta sẽ không thực hiện yêu cầu mà bên bị vi phạm đề xuất, bên bị vi phạm mới được đem các hình thức trách nhiệm khác ra áp dụng. Quy định này trong Luật thương mại Việt Nam có phần cứng nhắc so với Công ước Viên 1980 vì Công ước cho phép bên bị vi phạm hợp đồng vẫn được quyền đòi bồi thường thiệt hại trong khi áp dụng chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ. Luật thương mại Việt Nam cũng không quy định các bên có thể áp dụng chế tài phạt và bồi thường thiệt hại cho những vi phạm tiếp theo sau khi đã áp dụng chế tài thực buộc thực hiện đúng hợp đồng.

II. Các trường hợp miễn trách và hậu quả


Miễn trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là việc bên vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh, thương mại không phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Các bên trong hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có quyền thoả thuận về giới hạn trách nhiệm và miễn trách nhiệm hợp đồng trong những trường hợp cụ thể do các bên dự liệu khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, việc miễn trách nhiệm hợp đồng còn được áp dụng theo các trường hợp khác do pháp luật quy định. Theo Điều 294 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh, thương mại còn được miễn trách nhiệm khi:

(i) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; (ii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do

lỗi của bên kia; (iii) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

1. Sự kiện bất khả kháng


"Sự kiện bất khả kháng" là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Pháp “force majeure” có nghĩa là “sức mạnh tối cao” hoặc “sức người không thể kháng cự nổi”. Sự kiện này xẩy ra chỉ sau khi ký hợp đồng, không phải do lỗi của bất kỳ bên tham gia hợp đồng nào, mà xẩy ra ngoài ý muốn và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh và khắc phục được, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa vụ, bên chịu sự cố này có thể được miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.

Sự kiện bất khả kháng có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… Việc coi các hiện tượng thiên tai có thể là sự kiện bất khả kháng được áp dụng khá thống nhất trong luật pháp và thực tiễn của các nước trên thế giới.

Sự kiện bất khả kháng cũng có thể là những hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ… Tuy nhiên cách hiểu và thừa nhận các hiện tượng xã hội là sự kiện bất khả kháng là rất đa dạng trên toàn thế giới và nhiều điểm chưa có sự thống nhất.

Sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự, theo Khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Từ quy định này cho thấy, một sự kiện được coi là bất khả kháng với tính chất là căn cứ để miễn trách nhiệm hợp đồng phải thoả mãn các dấu

hiệu: (i) Xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp Đồng; (ii) Có tính chất bất thýờng mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; (iii) Là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm hợp đồng. Với cách hiểu như vậy, các trường hợp bất khả kháng có thể bao gồm: Thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh, đình công, sự thay đổi chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Ngoài ra, trong thực tiễn, các bên trong quan hệ hợp đồng còn đưa những sự kiện xẩy ra cho chính bản thân mình là sự kiện bất khả kháng như: thiếu nguyên liệu, mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao hàng,… là sự kiện bất khả kháng để hưởng chế độ miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Về mặt lý luận thì các sự kiện này không đương nhiên được coi là sự kiện bất khả kháng nếu các bên không thỏa thuận.

Như vậy về mặt nguyên tắc chung, sự kiện bất khả kháng có những đặc điểm sau đây:

- Là sự kiện khách quan xẩy ra sau khi ký hợp đồng;


- Là sự kiện xẩy ra không do lỗi của các bên trong hợp đồng;


- Là sự kiện mà các bên trong hợp đồng không thể dự đoán và khống chế được.

Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, đối với những hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thời hạn cố định về giao hàng, các bên đều có quyền không thực hiện hợp đồng và không bị áp dụng các biện pháp chế tài. Trường hợp hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có nội dung thỏa thuận giao hàng trong một thời hạn, các bên trong hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời

gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:

- Năm tháng đối với hàng hoá mà thời hạn giao hàng được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;

- Tám tháng đối với hàng hoá mà thời hạn giao hàng được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.

Khi áp dụng quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng minh các trường hợp được miễn trách nhiệm thuộc nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm nếu muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng thì phải có đầy đủ chứng cứ để chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.

Hậu quả của sự kiện bất khả kháng


Khi có sự kiện bất khả kháng xẩy ra thì bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng sẽ:

- Được miễn trách nhiệm nếu nghĩa vụ không được thực hiện, không được thực hiện đầy đủ hoặc không được thực hiện đúng do sự kiện bất khả kháng gây ra;

- Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng.

Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có

thể chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.


Thủ tục thông báo khi có sự kiện bất khả kháng


Theo thông lệ chung, khi có sự kiện bất khả kháng thì bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng phải gửi thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. Tuy nhiên thông thường, các bên quy định rõ thời hạn thông báo và hậu quả của việc không thông báo: Nếu không thông báo thì sẽ mất quyền được miễn trách nhiệm hoặc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp nếu các bên không có thỏa thuận cụ thể về hậu quả của việc không thông báo, thì các bên sẽ tuân theo luật áp dụng để giải quyết. Theo nguyên tắc chung của phần lớn luật áp dụng, nếu bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng vi phạm nghĩa vụ thông báo thì sẽ không được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Điều 79.4 của Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định: “Bên không thực hiện hợp đồng phải thông báo cho phía bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đến khả nãng thực hiện hợp đồng. Nếu phía bên kia không nhận được thông báo về điều đó trong thời hạn hợp lý sau khi bên không thực hiện hợp đồng đã biết hoặc buộc phải biết về trở ngại đó, thì bên không thực hiện hợp đồng phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra cho phía bên kia do không nhận được thông báo.” Do vậy, để bảo đảm lợi ích của mình, bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng cần:

- Gửi đến bên kia thông báo bằng vãn bản (fax, telegraph, email, điện tín, thư bảo đảm,…) về sự kiện bất khả kháng trong thời hạn hợp đồng hoặc luật áp dụng quy định nếu không có quy định thì trong một thời gian hợp lý.

- Kèm theo thông báo là văn bản chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác có giá trị chứng minh. Nếu một bên gửi cho bên kia một thông báo về sự kiện bất khả kháng mà không có tài liệu chứng minh thì chắc chắn sẽ không được chấp nhận. Vì vậy việc chuẩn bị các chứng cứ để

được hưởng miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng là rất cần thiết.


Các trường hợp bất khả kháng phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận. Quy định này được hiểu là khi gặp bất khả kháng, bên vi phạm hợp đồng phải gửi ngay thông báo bằng văn bản để phía bên kia được biết. Đây là quy định mà luật pháp các nước đều áp dụng. Tuy nhiên, hậu quả của việc không thông báo hay thông báo chậm về bất khả kháng theo luật pháp các nước lại có sự khác biệt. Các nước tư bản chủ nghĩa thì cho rằng: khi gặp bất khả kháng mà không thông báo hoặc thông báo chậm thì có nghĩa là không có bất khả kháng, do đó sau này không được vận dụng bất khả kháng làm căn cứ miễn trách nhiệm vì đã vi phạm nghĩa vụ thông báo, tức là không được miễn trách nhiệm.

Còn theo luật của các nước XHCN như quy định trên của Luật thương mại Việt Nam, khi gặp bất khả kháng mà không thông báo hoặc thông báo chậm thì sau này vẫn được vận dụng bất khả kháng làm căn cứ miễn trách nhiệm, nhưng phải bồi thường thiệt hại phát sinh do việc không thông báo hay thông báo chậm gây ra. Rõ ràng là cách quy định này hợp lý hơn vì nó phù hợp với nguyên tắc vi phạm nghĩa vụ nào thì chịu trách nhiệm về việc vi phạm đó. Người vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (không giao hàng hoặc giao hàng chậm...) do gặp bất khả kháng thì được miễn trách nhiệm, còn vi phạm nghĩa vụ thông báo về bất khả kháng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do việc vi phạm này gây ra. Hơn nữa, nếu chỉ do sơ suất không thông báo hoặc thông báo chậm về bất khả kháng mà phải nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm này quá nặng so với vi phạm nghĩa vụ thông báo. Còn thiệt hại do việc vi phạm nghĩa vụ thông báo về bất khả kháng gây ra là những chi phí phải chi cho việc xác minh về bất khả kháng. Ví dụ, do không thông báo về bất khả kháng, sau đó mới trình bày là đã gặp bất khả kháng để được miễn trách nhiệm nhưng bên bị vi phạm không tin phải bay sang nước xảy ra bất khả kháng để xác minh, hoặc nhờ cung cấp thông tin

về bất khả kháng để xác minh là có thật thì chi phí đi lại, ăn ở hoặc chi phí mua thông tin được coi là thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thông báo gây ra.

Ngoài ra, thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thông báo về bất khả kháng gây ra còn gồm cả tiền phạt hoặc tiền thiệt hại mà bên bị vi phạm phải nộp cho người thứ ba vì không được thông báo hoặc thông báo chậm về bất khả kháng. Ví dụ, người nhập khẩu ký hợp đồng mua hàng của người xuất khẩu ngày ngày 25/7/1996, giao hàng tháng 8/1996, song vào tháng 8/1996 lại xảy ra bất khả kháng ở nước người xuất khẩu nhưng người xuất khẩu không thông báo gì cho người nhập khẩu biết. Ngày 4/9/1996, người nhập khẩu ký hợp đồng bán lô hàng nhập khẩu này cho người thứ ba. Vì bất khả kháng xảy ra nên người xuất khẩu không giao được hàng cho người nhập khẩu nên người nhập khẩu cũng không giao được hàng cho người thứ ba, người thứ ba đòi người nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại phát sinh do việc không giao hàng gây ra. Người nhập khẩu viện lý do là người xuất khẩu bán hàng cho mình gặp bất khả kháng được miễn trách nhiệm nên người nhập khẩu cũng phải được miễn trách trước người thứ ba. Nhưng người thứ ba chứng minh được rằng bất khả kháng do người xuất khẩu gặp phải xảy ra trước khi người nhập khẩu đó ký hợp đồng bán hàng cho người thứ ba, cho nên người nhập khẩu đã lường trước được hoặc cần phải lường trước được, vì vậy người nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại, còn việc có đòi người xuất khẩu chịu trách nhiệm về việc không thong báo bất khả kháng hay không đó là việc của người nhập khẩu. Sau khi bồi thường thiệt hại cho người thứ ba do không giao hàng, người nhập khẩu đòi người xuất khẩu bồi thường thiệt hại do việc người xuất khẩu không thông báo bất khả kháng gây ra, bao gồm chi phí xác minh bất khả kháng và khoản tiền thiệt hại mà người nhập khẩu đã phải bồi thường cho người thứ ba, bởi vì nếu có thông báo về bất khả kháng xảy ra vào tháng 8/1996 một cách kịp thời thì người nhập khẩu đã không ký hợp đồng vào ngày 4/9/1996 bán lô hàng nhập khẩu đó cho người thứ

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 10/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí