Hành Vi Vi Phạm Của Một Bên Do Thực Hiện Quyết Định Của Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Có Thẩm Quyền Mà Các Bên Không Thể Biết Được Vào Thời Điểm Giao

ba và do đó không phải bồi thường thiệt hại.


2. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng

Trong thực tiễn, không chỉ những hiện tượng tự nhiên như: động đất, núi lửa... tác động ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội mà ngay cả các yếu tố chính trị xã hội do con người tạo nên cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của mình như: chiến tranh, bạo loạn, mệnh lệnh hay lệnh cấm của chính phủ, thi hành lệnh khẩn cấp, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Mệnh lệnh hành chính là sự can thiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các yếu tố này xảy ra bất ngờ đối với các bên ký kết hợp đồng và hậu quả của nó cũng thường đưa tới sự vi phạm hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng. Như vậy, khi một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà khi giao kết hợp đồng các bên không thể biết trước được dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hợp đồng. Tuy nhiên, quy định này của Luật Thương mại (2005) cũng cần được bàn định, bởi không phải trong mọi trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà khi giao kết hợp đồng các bên không thể biết trước được đều được miễn trách nhiệm hợp đồng.

Khi áp dụng các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng, việc chứng minh các trường hợp được miễn trách nhiệm thuộc nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.

CHƯƠNG III: SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI VI PHẠM HỢP ĐỒNG


I. Chế tài Bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua luật thương mại Việt Nam, công ước CISG và bộ nguyên tắc Unidroit

Đối với hợp đồng thương mại quốc tế, khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, một trong những chế tài được áp dụng phổ biến là bồi thường thiệt hại (1). Luật Thương mại Việt Nam 1997 và 2005 đều dành điều khoản (Điều 229 Luật 1997 và Điều 320 Luật 2005) để quy định vấn đề này. Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước CISG) cũng dành Mục II Chương 5 cho chế tài bồi thường thiệt hại. Bộ nguyên tắc của Unidroit (2) về hợp đồng thương mại quốc tế (sau đây gọi tắt là Bộ nguyên tắc Unidroit) dành Mục 4 Chương 7 để thống nhất các vấn đề về bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, những quy định trên lại có những điểm khác biệt trong thuật ngữ, trong cách giải thích và trong thực tế áp dụn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Sự khác biệt và bổ trợ giải thích cho nhau giữa ba văn bản về chế tài bồi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm do không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng3. Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định về chế tài bồi thường thiệt hại tại Điều 302. Chế tài này sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi luật điều chỉnh hợp đồng là luật Việt Nam.

Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 10

“Điều 302: Bồi thường thiệt hại


1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.

2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.

Điều 74 Công ước CISG đưa ra khung cơ bản cho việc đền bù thiệt hại: “Thiệt hại do vi phạm hợp đồng của một bên là tổng số các tổn thất kể cả lợi tức bị mất, mà bên kia phải chịu do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những thiệt hại như vậy không thể vượt quá tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc phải dự đoán được trong thời điểm ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra của vi phạm hợp đồng đó, trên cơ sở các thông tin và tình tiết mà bên vi phạm hợp đồng đã biết hoặc phải biết vào thời điểm đó”. Bộ nguyên tắc Unidroit đưa ra những quy phạm chung cho hợp đồng thương mại quốc tế với mục tiêu thiết lập một bộ nguyên tắc cân bằng để áp dụng trên thế giới không phụ thuộc vào truyền thống pháp luật và điều kiện kinh tế xã hội của các nước. Bộ nguyên tắc này có Mục 4 Chương 7 quy định về bồi thường thiệt hại.

a. Về phạm vi thiệt hại được đền bù


Khi xác định thiệt hại, cả ba nguồn luật trên đều giới hạn phạm vi thiệt hại được đền bù. Luật Thương mại Việt Nam quy định giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm hai loại là tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Công ước CISG thì quy định thiệt hại bao gồm những tổn thất. Khoản lợi đáng lẽ được hưởng (lợi tức bị mất) cũng được tính là tổn thất. Đối với phạm vi thiệt hại được bồi thường trên, Bộ nguyên tắc Unidroit có những quy định chi tiết hơn và phạm vi bồi thường rộng hơn.

Cụ thể, thứ nhất, Bộ nguyên tắc Unidroit ở Điều 7.4.2 quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ, bao gồm cả những thiệt hại vật chất (tổn thất và lợi ích bị mất đi) và cả những thiệt hại phi tiền tệ bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần trong đó có thiệt hại do mất uy tín (loại thiệt hại mà bên bị thiệt hại đòi bồi

thường trong một số tranh chấp điển hđnh). Công ước Viên không có quy định cụ thể về loại thiệt hại này. Bên cạnh đó, Công ước tại Điều 5 còn quy định loại trừ việc áp dụng Công ước cho những thiệt hại do người chết hoặc bị thương. Luật Thương mại 2005 Điều 302 không nói rõ phạm vi thiệt hại có bao gồm thiệt hại phi vật chất hay không, nhưng khi xét Điều 307 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì có thể thấy phạm vi bồi thường thiệt hại có bao gồm những thiệt hại này.

“Điều 307 Bộ luật Dân sự 2005. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại:


1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần…

3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp về tinh thần cho người bị thiệt hại”.

Một loại chi phí cần được xem xét xem có thuộc phạm vi của thiệt hại được bồi thường hay không đó là chi phí luật sư – vấn đề gây nhiều tranh cãi trong nhiều năm gần đây, khi mà cả ba nguồn luật trên đều không có quy định chi tiết. Và thực tiễn khi nghiên cứu các phán quyết về những tranh chấp thương mại điển hình, có thể thấy rằng những yêu cầu về bồi thường chi phí luật sư thường bị bác (một phần nguyên nhân là bên bị thiệt hại không đưa ra được các chứng cứ chứng minh).

Thứ hai, Bộ nguyên tắc Unidroit còn có những điểm chi tiết hơn so với hai nguồn luật còn lại nữa là việc tính đến khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được với mục đích làm cho việc bồi thường thiệt hại không được làm lợi cho bên có quyền. Trong khi đó, Công ước CISG không có quy định cụ thể về vấn đề này. Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng không có quy định cụ thể. Tuy nhiên Điều 229 của Luật Thương mại Việt Nam 1997 lại có

ghi nhận: “Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng” với mục đích là để việc bồi thường thiệt hại không được làm lợi cho bên có quyền mặc dù không đưa ra được cách tính cụ thể như Bộ nguyên tắc Unidroit.

b. Về tính dự đoán trước của thiệt hại


Công ước CISG theo thuyết tính dự đoán trước của thiệt hại khi nêu cụ thể rằng thiệt hại phải là những tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc phải dự đoán trước được trong thời điểm ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra đối với vi phạm hợp đồng đó. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có những quy định cụ thể về tính dự đoán trước của thiệt hại ở Điều 7.4.4: “Bên có nghĩa vụ chỉ chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại mà mình đã dự đoán trước hoặc đã có thể dự đoán trước một cách hợp lý, vào thời điểm giao kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra từ việc không thực hiện”.

Xét quy định của Luật Thương mại Việt Nam, chúng tôi thấy rằng, Điều 302 có quy định về tính trực tiếp, thực tế của thiệt hại mà không nói rõ về tính dự đoán trước. Một số học giả cho rằng, thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại 2005 là có tính dự đoán trước. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, chúng tôi thấy rằng từ tính trực tiếp, thực tế (với nghĩa tương đương với tính xác thực của thiệt hại – “certainty of damages” theo Bộ nguyên tắc Unidroit) mà suy luận ra tính dự đoán trước thì còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Bởi vì, thứ nhất, tính xác thực, trực tiếp của thiệt hại và tính dự đoán trước của thiệt hại không phải là một. Ví dụ rõ ràng là Bộ nguyên tắc Unidroit có hai điều luật riêng biệt về hai tính chất này là Điều 7.4.3 và 7.4.4; thứ hai, mặc dù từ tính dự đoán trước có thể suy rộng ra tính xác thực của thiệt hại như trường hợp của Công ước CISG, việc suy luận ngược lại rằng từ tính trực tiếp, xác thực mà hiểu thêm có tính dự đoán trước thì cần phải có thêm lý giải xác đáng. Mặc dù nếu thiệt hại là thực tế, trực tiếp thì thiệt hại đó phải có mối quan

hệ nhân quả với hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, vì thiệt hại có mối quan hệ nhân quả nên nó có tính dự đoán trước là một điều chưa chắc. Bởi vì không phải thiệt hại có mối quan hệ nhân quả nào bên vi phạm cũng có thể dự liệu trước; thứ ba, một số nước trên thế giới ví dụ như Pháp không giới hạn mức thiệt hại được đền bù trong phạm vi dự đoán trước. Như vậy, tính xác thực không nhất thiết phải đi cùng tính dự đoán trước.

c. Về giá trị tính toán của các khoản bồi thường thiệt hại


Công ước CISG và Bộ nguyên tắc Unidroit có phương thức tính toán thiệt hại gần giống nhau trong trường hợp hợp đồng bị hủy. Điều 75 Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và bên bị vi phạm đã ký một hợp đồng thay thế. Lúc này bên bị thiệt hại sẽ được bồi thường khoản chênh lệch giữa giá theo hợp đồng và giá của giao dịch thay thế. Điều 76 đưa ra cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hủy hợp đồng nhưng bên bị thiệt hại đã không ký hợp đồng thay thế. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có những điều khoản tương tự là Điều 7.4.5 và 7.4.6.

Tuy nhiên, không tìm thấy những quy định tương tự như vậy trong Luật Thương mại Việt Nam mặc dù trong thực tế cách tính toán thiệt hại như trên là khá thông dụng.

Một trong những vấn đề khó khăn và hay gây tranh cãi trong các tranh chấp, đó là việc tính toán số tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Để đòi bồi thường thành công, các bên cần phải lưu ý tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản.

Tranh chấp giữa một Công ty Pháp (người mua) và một Công ty Italia (người bán). Do hàng hóa người bán giao không phù hợp với hợp đồng, người mua hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại. Hai bên tranh cãi về số tiền bồi thường.

Tranh chấp được xét xử tại Tòa Phúc thẩm tại thành phố Rennes (Pháp), bản án ngày 27/05/2008. Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (cụ thể là các điều 25, 35, 47, 49, 75 và 77) đã được áp dụng để giải quyết tranh chấp.

Diễn biến tranh chấp:


Công ty Pháp đã ký với Công ty Italia một số hợp đồng mua miếng lót ngực để sản xuất áo bơi với tổng số lượng là 17.600 đôi. Hàng hóa được giao đến cho một Công ty Tunisie để gia công. Trong quá trình gia công, người mua phát hiện ra các miếng lót ngực không phù hợp với yêu cầu về chất lượng đã được quy định trong hợp đồng và trả lại hàng. Ngày 3/11/2003, người bán Italia đề nghị sẽ sửa chữa hàng hóa và sẽ giao hàng hóa phù hợp trong thời gian 5 tuần. Tuy vậy, người bán đã không thực hiện được việc sửa chữa hàng hóa trong thời gian nói trên. Ngày 11/12/2003, người mua tuyên bố hủy hợp đồng và đòi người bán bồi thường

32.490 Euro, bao gồm 2 khoản sau:


1. Chi phí sản xuất lô áo bơi tại Tunisie từ miếng lót ngực không đạt chất lượng: 16.290 eur (1800 áo x chi phí 9,05 eur/áo)

2. Thiệt hại (do chênh lệch giá) khi mua miếng lót ngực để thay thế. Cty người mua, vào tháng 12/2003 đã phải đặt hàng mua gấp 16.200 đôi miếng lót ngực từ một nhà cung cấp T khác và vì mua gấp cũng như không có vị thế đàm phán nên phải chấp nhận mức giá cao hơn 1 eur so với mức giá trong hợp đồng, dẫn đến thiệt hại là 16.200 eur.

Người bán phản đối các khoản bồi thường nói trên và cho rằng các khoản này là không hợp lý.

Phán quyết của Tòa án:


Tòa án cho rằng hợp đồng được điều chỉnh bởi Công ước Vienna năm 1980

của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) vì cả Pháp và Italia đều là thành viên của Công ước này.

Tòa áp dụng các điều 25, 35, 47 và 49 CISG để khẳng định trong trường hợp này, người mua có quyền hủy hợp đồng do người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng và không thể sửa chữa hàng hóa trong khoảng thời gian mà người mua đã gia hạn thêm.

Về các khoản mà người mua đòi bồi thường, tòa án lập luận như sau:


Khoản 1: Theo các thư từ trao đổi giữa các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, vào thời điểm phát hiện ra sự không phù hợp của hàng hóa, mới có 860 đôi miếng lót ngực được đưa vào sản xuất. Tuy vậy, phải đợi 3 ngày sau thì Công ty người mua mới cho lệnh dừng dây chuyền sản xuất áo bơi tại Tunisie, làm cho số lượng áo bơi được sản xuất tăng lên 1800. Tòa dẫn chiếu đến điều 77 CISG liên quan đến nguyên tắc hạn chế tổn thất, theo đó, bên bị vi phạm phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất do sự vi phạm hợp đồng gây ra.

Tòa cho rằng, trong trường hơp này, đáng lẽ người mua phải hành động nhanh chóng hơn để giảm bớt thiệt hại. Hơn nữa, chi phí sản xuất áo bơi (9,05 eur/áo) do người mua tính là chưa hợp lý vì chi phí nhân công trung bình để sản xuất áo bơi tại Tunisie thấp hơn ở Pháp rất nhiều, chỉ khoảng 1 eur/áo. Với những lập luận đó, Tòa án cho rằng người mua chỉ được đòi bồi thường thiệt hại số tiền là

3.000 eur.


Khoản 2: Để xem xét khoản thiệt hại do mua hàng thay thế, tòa án áp dụng điều 75 CISG: Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, người mua đã mua hàng thay thế hay người bán đã bán lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 10/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí