Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 12

thương mại. Đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, những thuộc tính vốn có của hợp đồng dân sự được biểu hiện trong hợp đồng thương mại đồng thời hợp đồng thương mại cũng có những đặc thù riêng của nó. Thực tế hiện nay, khi hội nhập kinh tế, việc phân định hai loại hợp đồng này nhiều khi rất khó khăn, phức tạp vì thế việc thống nhất pháp luật cũng cần thiết để khi sử dụng bất kì luật nào cũng không dẫn đến xung đột tranh chấp.

Hai là, cần sửa đổi Bộ luật dân sự 2005 nói chung và Luật thương mại 2005 về từng loại chế tài cụ thể, về tên gọi, về căn cứ áp dụng, về hậu quả áp dụng chế tài…

Thứ hai, quy định cụ thể hơn về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng


Quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại có 3 chế tài (tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ thực hiện hợp đồng) mà điều kiện bắt buộc để được áp dụng là một bên trong quan hệ thương mại có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Khoản 13 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên, Luật thương mại 2005 không hướng dẫn cụ thể thế nào là thiệt hại làm cho một bên không đạt được mục đích của việc kí kết hợp đồng? Theo quy định thì nếu luật không quy định thì các bên không cần phải nêu rõ mục đích giao kết hợp đồng. Do đó nếu không sửa đổi hoặc làm rõ sẽ dẫn tới cách hiểu khác nhau về vấn đề này và khó khăn trong việc áp dụng chế tài trong thương mại. Thực tiễn ở các nước phát triển như Anh, Mỹ thường giao việc xem xét thế nào là vi phạm cơ bản cho cơ quan giải quyết tranh chấp quy định. Tuy nhiên ở Việt Nam thì hiểu biết về hợp đồng của các chủ thể tham gia quan hệ thương mại chưa tốt, hoạt động kí kết các loại hợp đồng thương mại chỉ trải qua hơn 14 năm kể từ ngày Luật thương mại 1997 có hiệu lực vì vậy

vần phải làm rõ khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong đó liệt kê những vi phạm được coi là vi phạm cơ bản. Có như vậy sẽ giúp cho 3 chế tài nói trên được áp dụng một cách thuận tiện hơn trong thực tiễn.

Thứ ba, cần quy định rõ hơn về khoản bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần trong chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

Điều 302 Luật thương mại 2005 mới chỉ đề cập đến việc bên vi phạm phải bồi thường những thiệt hại thực tế, trực tiếp chứ chưa đề cập tới khoản bồi thường về mặt tinh thần cho bên bị vi phạm. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại giữa các thương nhân, nhiều khi thương nhân cùng một lúc giao kết và thực hiện nhiều hợp đồng trong đó có thể lấy đối tượng của hợp đồng trước để làm đối tượng giao kết của hợp đồng sau. Do đó việc vi phạm có thể gây ra việc uy tín bị ảnh hưởng xấu, ảnh hưởng tới việc thực hiện hoạt động thương mại hay mở rộng phạm vi thương mại của bên bị vi phạm.

Thứ tư, cần phải xem xét lại mức giới hạn tối đa mức phạt 8%; sửa đổi theo hướng tăng giới hạn mức phạt vi phạm hợp đồng hoặc không giới hạn mức phạt tối đa. Cơ sở để đưa ra đề xuất này, xuất phát từ những căn cứ sau:

i. bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy, các bên hoàn toàn chịu trách nhiệm khi thỏa thuận chọn mức phạt;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

ii. không nên giới hạn mức phạt, nhằm mục đích răn đe buộc các bên thực hiện đúng hợp đồng. Việc giới hạn mức phạt sẽ phần nào gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn mức phạt;

iii. chế tài bồi thường thiệt hại rất ít khi được tòa án và trọng tài chấp nhận khi bên bị vi phạm yêu cầu bồi thường. Vì vậy, việc cho phép các bên có quyền thỏa thuận mức phạt không hạn chế nhằm bảo vệ phần nào lợi ích cho bên bị vi phạm hợp đồng.

Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 12

Thứ năm, cần quy định thêm biện pháp cầm giữ tài sản là chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng

Cầm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ chỉ được đề cập đến đối với một vài hoàn cảnh trong Luật thương mại 2005. Bộ luật dân sự quy định cầm giữ tài sản là chế tài áp dụng khi có vi phạm hợp đồng. Vì vậy, Luật thương mại 2005 cũng nên quy định chế tài cầm giữ tài sản áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.

Thứ sáu, cần hoàn thiện chế tài bồi thường thiệt hại của Luật Thương mại Việt Nam cho tương thích với luật thương mại quốc tế:

Điều 302 của Luật Thương Mại qui định giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng.

Điều 302 này hoàn toàn loại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Theo như Luật Thương Mại thì các bên không thể thỏa thuận giới hạn trách nhiệm bồi thường mà phải bồi thường đầy đủ toàn bộ thiệt hại. Đây là rủi ro rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam vì giá trị bồi thường có thể vượt qua mọi kế hoạch kinh doanh và không có ngân quỹ để thanh toán. Ví dụ như xây dựng một một nhà máy điện, chủ đầu tư chỉ có ngân sách dự phòng từ 5% đến 10% tổng chi phí đầu tư. Nếu không giới hạn trách nhiệm bồi thường thì chủ đầu tư có thể bị yêu cầu bồi thường cho nhà thầu hơn 20% tổng vốn đầu tư và sẽ không thể có đủ tiền để có thể tiếp tục hoàn thành xây dựng nhà máy. Trong khi đó luật lệ của các nước và thông lệ quốc tế đều cho phép các bên thỏa thuận giới hạn trách nhiệm bồi thường. Đây là một rủi ro pháp lý không thể kiểm soát khi kinh doanh tại Việt Nam.

Trên thế giới, việc sử dụng Bộ nguyên tắc Unidroit để bổ trợ giải thích Công ước Viên là phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc sử dụng Bộ nguyên tắc Unidroit

và Công ước Viên như những nguồn tập quán quốc tế để giải thích luật thương mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng là một quan điểm chưa được thừa nhận rộng răi. Theo tư duy phổ biến hiện nay, đối với những vấn đề mà luật thương mại (luật chuyên ngành) chưa điều chỉnh thì sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự (đạo luật mẹ) để giải thích. Nhưng điều này chỉ được thừa nhận áp dụng phổ biến đối với quan hệ thương mại quốc nội. Còn đối với hợp đồng thương mại quốc tế, điều này có áp dụng không? Và cho dù có áp dụng, chế tài bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Dân sự cũng không bao quát được hết các vấn đề của thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó, quy định về chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại cần bổ sung thêm một số điểm để đảm bảo tính rõ ràng và tương thích với pháp luật quốc tế:

Một là, cần giới hạn rõ phạm vi thiệt hại được bồi thường cho hợp đồng thương mại, quy định rõ phạm vi bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không, nếu có thể nên liệt kê rơ những thiệt hại phi tiền tệ được bồi thường nếu có chứng cớ xác đáng như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do người chết, bị thương… đến những thiệt hại khác như chi phí luật sư, dịch thuật… Và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không.

Hai là, quy định rõ thiệt hại là có tính dự đoán trước bên cạnh tính thực tế, trực tiếp.

Ba là, quy định thêm cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy với hai khả năng là bên bị vi phạm đã ký hợp đồng thay thế hoặc không như cách tính toán thiệt hại với hai khả năng trên của Công ước Viên và Bộ nguyên tắc Unidroit.

Bốn là, quy định rõ về đồng tiền tính toán thiệt hại là đồng tiền quy định trong điều khoản nghĩa vụ thanh toán hoặc đồng tiền tại nới thiệt hại phát sinh tùy

theo đồng tiền nào thích hợp nhất.


Năm là, xác định rõ có tính tiền lãi trên khoản tiền bồi thường thiệt hại như quy định tại Điều 7.4.10 của Bộ nguyên tắc Unidroit hay không.

Tuy nhiên cần chú ý rằng, vì chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại Việt Nam trước hết là được áp dụng đối với quan hệ thương mại quốc nội. Việc điều chỉnh nó theo khuynh hướng áp dụng cho quan hệ thương mại quốc tế như trên chưa hẳn là xác đáng. Sự lựa chọn hợp lý nhất, theo chúng tôi, là khi Luật Thương mại Việt Nam được áp dụng cho một hợp đồng thương mại quốc tế, nên giải thích áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại này theo hướng điều chỉnh trên và để đảm bảo tính tổng quan, nên thừa nhận việc áp dụng Công ước Viên là Bộ nguyên tắc Unidroit để bổ trợ giải thích Luật Thương mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại nói riêng.

Thứ bẩy, theo Điều 310 của Luật Thương Mại, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp:

(i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; hoặc

(ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.


Điều 310 này hoàn toàn loại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Theo Luật Thương Mại thì các bên không thể thỏa thuận chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong các trường hợp khác. Điều khoản này không phản ánh thực tế là các bên thường thỏa thuận về các sự kiện chấm dứt mà không phụ thuộc vào việc có xảy ra hành vi vi phạm hay không. Ví dụ nếu giá cả thị trường biến động lớn thì một bên có quyền chấm dứt hợp đồng và trong trường hợp này thì sự không có hành vi vi nào cả. Điều khoản này cũng hoàn toàn đi ngược với ý chí của các bên:

khi vi phạm xảy ra thì các bên đều mong muốn thỏa thuận giải pháp khắc phục chứ không thể nào cho bên kia quyền đương nhiên chấm dứt theo pháp luật.

Khi hợp đồng bị đình chỉ, Điều 311 của Luật Thương Mại yêu cầu Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ tương ứng. Điều khoản 311 này hoàn toàn loại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Chẳng lẽ các bên lại không được quyền thỏa thuận về việc không phải thanh toán trong các trường hợp hợp đồng bị đình chỉ ?

Thứ tám, các trường hợp miễn trách


Theo Điều 294 của Luật Thương Mại, các bên được miễn trách nhiệm trong trường hợp dưới đây:

- Xảy ra trường hợp miễn trách đã thỏa thuận;


- Xảy ra sự kiện bất khả kháng;


- Vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;


- Vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không thể biết vào lúc giao kết hợp đồng.

Điều 294 của Luật Thương Mại loại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Theo nguyên tắc tự do thỏa thuận, liệu các bên không được quyền thỏa thuận để giới hạn các trường hợp trên đây miễn trách trên đây? Trên thực tế, sự kiện bất khả kháng không áp dụng đối với một số loại hợp đồng đặc thù. Ví dụ như Hợp đồng vay vốn ngân hàng. Khi đã vay được tiền thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ và tất cả các hợp đồng vay vốn đều buộc bên vay phải trả nợ trong mọi trường hợp chứ không được miễn trách nhiệm trả nợ trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Nếu bên vay lợi dụng Điều 294 để đòi miễn trách nhiệm trả nợ khi có sự kiện bất khả kháng thì chắc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng.

Thứ chín, đây là kiến nghị cuối cùng, theo tôi cũng là kiến nghị quan trọng nhất, đó là, đẩy nhanh quá trình gia nhập công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidorit. Bởi lẽ, có thực hiện được vấn đề này thì pháp luật về hợp đồng thương mại Việt Nam nói chung và pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng nói riêng mới có thể được cải tổ do sức ép để phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.


2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Luật thương mại năm 2005 về các chế tài trong thương mại


Thứ nhất, nâng cao năng lực thực thi pháp luật ở Viêt Nam cho các Tòa án, Trọng tài

Khi xảy ra tranh chấp về việc áp dụng chế tài trong thương mại, các bên có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước can thiệp đặc biệt là tòa án. Khi đó quyết định của tòa án là quyết định cuối cùng. Vì vậy để xét xử công bằng, đúng pháp luật và tạo niềm tin cho nhân dân thì việc các thẩm phán, các cấn bộ tư pháp hiểu biết về pháp luật thương mại, hay các quy định về chế tài trong thương mại là rất quan trọng.

Hiện nay tại nhiều tòa án, trình độ của đội ngũ cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều người không nắm vững quy định của pháp luật cũng như những văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án tối cao nên trong quá trình áp dụng pháp luật gây ra nhiều sai sót. Bên cạnh đó, một số tòa án huyện, tỉnh đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, gây qua tải ảnh hưởng tới xét xử. Vì vậy:

- Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hướng dẫn nhằm áp dụng thống nhất và hoàn thiện pháp luật về pháp luật về hợp đồng, về các vụ án liên quan tới chế tài. Cần đưa ra một số vụ án và cách giải quyết điển hình làm tài liệu học tập của các cán bộ tư pháp.

- Nâng cao trình độ cán bộ tư pháp, nhà nước cần trang bị các thiết bị hiện đại

hơn, đưa ra các chế độ đãi ngộ hợp lí để họ thực sự yên tâm công tác, tự học tập nâng cao trình độ bản thân.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật thương mại cho các thương nhân

Tuyên truyền và phổ biến pháp luật thương mại nói chung và chế tài trong thương mại nói riêng là nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, cho các cơ quan quản lí nhà nước về thương mại và đặc biệt là cho các thương nhân để họ hiểu biết về pháp luật thương mại, về các chế tài trong thương mại. Nhiều thương nhân đã biết về các công cụ pháp lí này nhưng lại không hiểu biết rõ về những điều kiện đòi hỏi pháp lí và thủ tục mà họ cần phải làm khi tham gia kí kết hợp đồng, khi có vi phạm xảy ra, khi áp dụng chế tài rồi mà bên vi phạm vẫn không thực hiện. Chính vì vậy, nhà nước cần xây dựng các biện pháp để tuyên truyền pháp luật tới người dân, các thương nhân để họ nắm bắt được và sử dụng như một biện pháp tự vệ hay trừng phạt trong thương mại khi tham gia hoạt động thương mại của mình.

Thứ ba, nâng cao năng lực nhận thức và năng lực pháp luật thương mại của các thương nhân ở Việt Nam

Năng lực nhận thức và năng lực pháp luật của các thương nhân về các chế tài trong thương mại cần phải được nâng cao. Chỉ khi nào các chủ thể tham gia vào các giao dịch thương mại thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng chế tài trong các hợp đồng thương mại thì họ mới có thể xây dựng được một hợp đồng trong thương mại chính xác, hoàn thiện. Thực tiễn cho thấy không ít thương nhân kể cả doanh nghiệp tỏ ra lúng túng khi có vi phạm hợp đồng của bên kia. Khi đó áp dụng chế tài cho thấy có sự sai sót dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Nguyên nhân là do họ chưa nhận thức được vai trò của các chế tài và việc sử dụng các biện pháp

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 10/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí