bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong hợp đồng thì khi soạn thảo các thỏa thuận trong
hơp đồng, các bên cần có quy định về các trường hợp phạt vi phạm cũng như điều
kiên
để tiến hành phaṭ vi pham
môt
cách chi tiết và cu ̣thể nhất . Để khi có vi pham
xảy ra, các bên không phải lúng túng trong việc xác định tính đú ng sai của sự viêc̣ ,
cũng như xảy ra các tranh chấp không đáng có trong quan hệ hợp tác , dân đêń
những hâu
quả không mong muốn trong quan hê ̣làm ăn hiên
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Chế Tài Trong Thương Mại
- Hủy Bỏ Toàn Bộ Hợp Đồng Là Việc Bãi Bỏ Hoàn Toàn Việc Thực Hiện Tất Cả Các Nghĩa Vụ Hợp Đồng Đối Với Toàn Bộ Hợp Đồng.
- Căn Cứ Áp Dụng Chế Tài Buộc Thực Hiện Đúng Hợp Đồng
- Tạm Ngừng, Đình Chỉ Và Hủy Bỏ Hợp Đồng
- Mối Quan Hệ Giữa Các Chế Tài Theo Luật Thương Mại Việt Nam
- Về Mối Quan Hệ Giữa Chế Tài Buộc Thực Hiện Đúng Hợp Đồng Và Các Loại Chế Tài Khác.
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
taị cũng như trong
tương lai. Trong thưc
tế đã có những sự viêc
đáng tiếc dân
đến tranh chấp không
đáng có giữa các bên do sự không am hiểu về pháp luâṭ thương maị nói chung cũng như chế tài phạt vi phạm nói riêng.
Theo quy điṇ h c ủa Luâṭ Thương mai 2005 thì việc thoả thuận về phạt vi
phạm chỉ xảy ra nếu trong hơp
đồng có thỏa thuân
. Điều này có thể hiểu là phải co
thỏa thuận từ trước trong hợp đồng. Nhưng quy điṇ h như trên của pháp luâṭ là chưa
thỏa đáng. Bởi lẽ, hơp
đồng là sự thỏa thuân
của các bên , nếu như cá c bên chưa
quy điṇ h về phaṭ vi pham
trong hơp
đồng thì ho ̣vân
có quyền quy điṇ h m ột điều
khoản ngoài hợp đồng , đôc
lâp
với hơp
đồng và có thể giao kết sau khi hơp
đồng
đươc
ký kết thì vân
có hiêu
lưc
thi hành bình thư ờng như đã được quy định trong
hơp
đồng từ trước. Quy điṇ h trên của pháp luâṭ đã làm han
chế quyền tự thỏa thuân
của các bên trong các quan hệ hợp tác.
b/Mức phạt vi phạm:
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” (điều 301 luật thương mại 2005).
Theo quy điṇ h hiên
hành của pháp luâṭ Viêṭ Nam , có hai văn bản pháp luật
có giá tr ị điều chỉnh quan hệ về ch ế tài phaṭ vi pham
là Bô ̣luâṭ Dân sự 2005 và
Luâṭ Thương mai
2005. Theo quy điṇ h c ủa Bô ̣luâṭ Dân sự 2005 về mứ c phaṭ vi
phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức phạt vi phạm do các bên tự
thỏa thuận (khoản 2 điều 422 bộ luật dân sự 2005). Điều này có thể đươc hiêủ là các
bên có quyền tự ý lưa
chon
mứ c phaṭ vi pham
mà không hề bi ̣khống chế bởi quy
điṇ h của pháp luâṭ. Quy điṇ h này xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuân
theo quy
điṇ h của luâṭ dân sự . Tuy nhiên, đó chỉ là những quan hê ̣mang tính chất dân sư
theo nghia
hep
. Còn đối với những quan hệ dân sự theo nghĩa rộng , mà cụ thể là
các quan hệ được Luật Thương mại 2005 điều chỉnh thì mứ c phaṭ vi pham
bi ̣han
chế ở mứ c 8%. Những quan hệ được Luật thương mại điều chỉnh, đó là “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 điều 3 luật thương mại 2005). Những quan hê ̣này khi có
tranh chấp xảy ra và có điều khoản về phạt vi phạm thì sẽ áp dun
phạm tối đa là 8%.
g m ức phaṭ vi
Một vấn đề đặt ra, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị hợp đồng, ví dụ: hai bên thỏa thuận, mức phạt 30%, 200%… thì sẽ xử lý như thế nào? Liên quan đến vấn đề này, có hai quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc thỏa thuận này là vô hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai bên không có thỏa thuận. Quan điểm thứ hai cho rằng, việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô hiệu một phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hoàn toàn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của bên bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại, các Tòa án thường chấp nhận quan điểm thứ hai, nghĩa là nếu hai bên thỏa thuận vượt quá 8% thì sẽ áp dụng mức phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường cho bên bị vi phạm. Chúng tôi cho rằng, điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì, bản chất hợp đồng là ý chí của các bên, trong trường hợp này các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt
nếu vi phạm hợp đồng, còn việc thỏa thuận mức phạt vượt quá giá trị hợp đồng là do hai bên chưa hiểu biết đầy đủ quy định của Luật Thương mại 2005 chứ không có nghĩa là không có điều khoản về phạt vi phạm.
Bản chất của chế đ ịnh “phạt vi phạm” : Phạt vi phạm cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau , có người cho rằng phạt vi phạm là một biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng hay để nhằm khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra . Hoặc, phạt vi phạm là biện pháp nhằm “kh ống chế” để cho các bên
không dám vi pham
hơp
đồng, thậm chí là một biện pháp nhằm “trừng phạt” bên vi
phạm hợp đồng. Nhưng theo chúng tôi, chế tài phaṭ vi pham
đươc
hiểu là môt
biên
pháp ngăn ngừ a hành vi vi pham
. Bởi lẽ, nếu cho rằng phaṭ vi pham
là môt
biên
pháp để khắc phục hậu quả và bù đắp thiệt hại cho người bị vi phạm thì đã có chế
tài bồi thường thiệt hại . Nếu đươc
hiểu là môt
biên
pháp bảo đảm thì đã có biện
pháp Đặt cọc . Và nếu hiểu chế tài phạt vi phạm là một biện pháp ngăn ngừa vi phạm trong hợp đồng thì pháp luật phải để cho các bên tự thỏa thuận , sao cho mứ c phạt vi phạm có thể phát huy được đầy đủ ý nghĩa của mình . Tuy nhiên, nếu như
cứ để cho các bên tự do thỏa thuân như quy điṇ h của pháp luâṭ dân sự thì các bên
có thể thỏa thuận một mức phạt “trên trời dưới đất” , rất khó để các bên có thể thưc
hiên
nghia
vu ̣khi vi pham
xảy ra và sẽ dân
đến viêc
chế điṇ h này sẽ không phát
huy đươc
hiêu
quả trên thưc
tế . Mặt khác , mứ c han
chế này cũng cần đươc
nới
rôn
g ra để cho các bên có thể tự do thỏa thuân
phù hơp
với tình hình thưc
tế h iên
nay.
Cũng theo quy định này thì mức phạt vi phạm là 8% trên giá tri ̣ph ần nghia
vụ hợp đồng bi ̣vi pham. Có thể hiểu quy định này là mức phạt thực tế mà các bên
có thể đưa ra là 8% nhưng phải là trên phần nghia
vu ̣bi ̣v i pham
. Vì vậy, phải xác
điṇ h đươc
phần nghia
vu ̣bi ̣vi pham
là bao nhiêu để có thể tính toán ra số tiền phat
vi pham th ực tế . Việc hiểu và chứng minh thế nào là “giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm” hoàn toàn không đơn giản. Chưa kể việc đánh giá, kết luận trong
trường hợp phải đưa ra Tòa án giải quyết thì hoàn toàn ph ụ thuôc
vào nhân
thứ c
chủ quan của Thẩm phán hoặc Hôi
đồng xét xử .
Chẳng hạn như trường hợp sau đây : Công ty Hưng Thiṇ h ký hơp đồng bán
3.000 tấn khoai lang vu ̣hè năm 2009 cho công ty TNHH chế biến nông sản Van
An. Theo hơp
đồng , Hưng Thiṇ h sẽ giao khoai cho Van
An thành ba đơt
vào các
ngày 15/04/2009, 01/05/2009 và 14/05/2009, mỗi đơt 1.000 tấn. Hưng Thiṇ h đa
thưc
hiên
nghi ̃a vu ̣trên vào đơt
1 và đợt 2 theo như hơp
đồng . Tuy nhiên, đến lần
giao hàng thứ 3 thì Hưng Thịnh đã không thực hiện hợp đồng . Nếu theo quy điṇ h tại Điều 301 thì Vạn An chỉ có thể phạt vi phạm Hưng Thịnh trên phần hợp đồng bị
vi pham
là 1.000 tấn chứ không phải là 3.000 tấn là cả hơp
đồng.
Đối với những hợp đồng mà phần vi phạm có thể được tính cụ thể như ví dụ
trên thì quy điṇ h này không khó khăn cho viêc
thưc
thi . Nhưng trên thưc
tế về
quan hê ̣hơp
đồng hơp
tác thì không phải hơp
đồng nào cũng có thể tính toán rõ
ràng phần hợp đồng bị vi phạm . Nếu như đó là môt
hơp
đồng dic̣ h vu ̣hay môt
công viêc
phải thưc
hiên
như v ụ việc sau đây thì việc xác định sẽ khó khăn hơn
nhiều: Công ty cổ phần Thành Công ký hơp đồng với công ty TNHH Quảng cáo
Sông Xanh để thưc
hiên
môt
chương trình quảng cáo cho dòng sản phẩm mới của
Thành Công với tổng giá trị hợp đồng là 01 tỷ VNĐ trong thời hạn 01 năm. Tuy
nhiên, khi đang thưc
hiên
hơp
đồng , Sông Xanh đã tự ý không thưc
hiên
tiếp .
Trong hơp
đồng giữa Thành Công và Sông Xanh có điều khoản phaṭ vi pham la
8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm . Nhưng để có thể xác điṇ h giá trị nghĩa vụ bị vi phạm trong trường hợp này thì không hề dễ dàng.
Để không bi ̣vướng mắc trong các quy điṇ h trên của pháp luât , không ít các
trường hơp
, các bên đã ký kết hợp đồng với điều khoản phạt vi phạm như sau :
“Nếu bên nào vi phạm hợp đồng thì ngoài việc phải bồi thường thiệt hại theo qui
định còn phải trả cho bên kia một số tiền gọi là tiền phạt vi phạm hợp đồng tương
đương 8% giá trị hợp đồng”. Vây
khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án có chấp nhân
thỏa thuân
phaṭ vi pham
này hay không ? Vì mặc dù đây là thỏa thuận tự nguyện
của các bên , nhưng nó laị trái quy điṇ h của pháp luât
. Vây
liêu
pháp luâṭ có nên
quy điṇ h môt
mứ c phaṭ vi pham
trên tổng giá tri ̣hơp
đồng như trên đ ể đơn giản
hóa vấn đề không?
Điều quan trọng là các bên phải có sự thỏa thuận, dự kiến trước về mức phạt trong hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, các nước lại có quy định khác nhau về mối quan hệ giữa thiệt hại và số tiền phạt. Luật Anh Mỹ cho rằng, trong trường hợp trái chủ không có thiệt hại thực tế thì mức phạt do hai bên hoàn toàn quyết định. Nếu trái chủ có thiệt hại thực tế thì tiền phạt phải thấp hơn thiệt hại thực tế. (Đây là quy phạm bắt buộc, nếu cao hơn thì chế tài này không có giá trị.) Luật Pháp thì quy định rằng, trong trường hợp trái chủ không có thiệt hại thực tế thì mức phạt do hai bên thỏa thuận. Còn khi có thiệt hại thực tế, theo nguyên tắc, tiền phạt phải thấp hơn thiệt hại thực tế.
Nhưng trên thực tế, các cơ quan tư pháp vẫn thừa nhận trường hợp mà tiền phạt cao hơn thiệt hại thực tế (quy phạm tùy nghi). Riêng luật Đức lại cho rằng, đã phạt là trừng phạt, do đó, khi trái chủ có thiệt hại thực tế thì tiền phạt luôn cao hơn thiệt hại thực tế. Các nước XHCN, trong đó có Việt Nam thì thừa nhận tiền phạt là tiền bồi thường tính trước. Nếu trái chủ có thiệt hại thực tế cao hơn so với tiền phạt đã thỏa thuận thì cho phép trái chủ được quyền lựa chọn hoặc là đòi tiền phạt, hoặc là đòi tiền bồi thường thiệt hại. Sau đây là một dẫn chứng cụ thể về việc áp dụng chế tài phạt trong giải quyết tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua:
Ngày 22/12/1994, Công ty Singapore IRP đã ký hợp đồng mua 36 tấn cà phê của công ty xuất nhập khẩu biên giới Thanh Hóa (Protimex) theo đơn giá2170
USD/ tấn, tổng trị giá hợp đồng là 78.120 USD. Thời hạn giao hàng quyđịnh trong hợp đồng không muộn quá ngày 20/1/1995, thanh toán bằng thư tíndụng không hủy ngang. L/C phải được mở trước ngày 5/1/1995. Bên nào vi phạm nghĩa vụ sẽ bị phạt 12% trị giá hợp đồng. Tiến hành thực hiện hợp đồng,công ty IRP đã mở L/C với số tiền là 78.120 USD ngày 5/1/1995, tức là đã hoànthành nghĩa vụ thanh toán theo phương thức thư tín dụng chứng từ song chậmhơn một ngày so với thời hạn của hợp đồng. Thế nhưng Protimex vào ngày18/1/1995 đã gửi công văn cho IRP trả lời là không thể giao hàng vì cà phê lêngiá và đang gặp khó khăn về vốn, do đó, đề nghị tăng giá hàng và lùi thời hạngiao hàng từ 20/1/1995 đến ngày 15/2/1995 nhưng IRP không chấp nhận vàkhởi kiện đòi tiền phạt vi phạm hợp đồng. Căn cứ theo Luật thương mại Việt Nam, lỗi ở đây thuộc về Protimex, mặc dù công ty IRP đã mở L/C chậm một ngày, song khi nhận được thông báo L/C đã mở, Protimex không hề có một hành vi phản đối hay yêu cầu gì, điều này chứng tỏ Protimex đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên Singapore. Hơn nữa, theo sự trình bày của Protimex là họ không đủ khả năng thực hiện hợp đồng, nhưng lại không có bất kỳ một hành vi nào nhằm thông báo cho IRP trước ngày 20/1/1995 để cùng thương lượng giải quyết, ngăn chặn thiệt hại. Do đó, xét theo Luật thương mại Việt Nam thì Protimex buộc phải nộp tiền phạt cho công IRP của Singapore. Tuy nhiên, mức phạt quy định trong hợp đồng lại vượt quá giới hạn tối đa cho phép của Luật thương mại Việt Nam là 8%. Do đó, nếu chiều theo Luật thương mại thì cơ quan xét xử chắc chắn sẽ điều chỉnh mức % phạt mà hai bên đã thỏa thuậnvới nhau sao cho phù hợp. Như vậy, có thể thấy các điều khoản phạt trong hợp đồng thường được áp dụng và phát huy tốt tác dụng nhằm ngăn ngừa, giáo dục bên mua nâng cao ý thức chấp hành tốt nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, do chỉ giới hạn ở một số vi phạm nhất định và ở mức phạt tối đa là 8%, chế tài này theo Luật thương mạiViệt Nam đã ít nhiều bị giảm tác dụng.
Cũng theo quy định này thì mức phạt vi phạm là 8% trên giá tri ̣ph ần nghia
vụ hợp đồng bi ̣vi pham. Có thể hiểu quy định này là mức phạt thực tế mà các bên
có thể đưa ra là 8% nhưng phải là trên phần nghia
vu ̣bi ̣vi pham
. Vì vậy, phải xác
điṇ h đươc
phần nghia
vu ̣bi ̣vi pham
là bao nhiêu để có thể tính toán ra số tiền phạt
vi pham th ực tế . Việc hiểu và chứng minh thế nào là “giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm” hoàn toàn không đơn giản. Chưa kể việc đánh giá, kết luận trong
trường hợp phải đưa ra Tòa án giải quyết thì hoàn toàn ph ụ thuôc
vào nhân
thứ c
chủ quan của Thẩm phán hoặc Hôi
đồng xét xử .
Chẳng hạn như trường hợp sau đây : Công ty Hưng Thiṇ h ký hơp đồng bán
3.000 tấn khoai lang vu ̣hè năm 2009 cho công ty TNHH chế biến nông sản Van
An. Theo hơp
đồng , Hưng Thiṇ h sẽ giao khoai cho Van
An thành ba đơt
vào các
ngày 15/04/2009, 01/05/2009 và 14/05/2009, mỗi đơt 1.000 tấn. Hưng Thiṇ h đa
thưc
hiên
nghia
vu ̣trên vào đơt
1 và đợt 2 theo như hơp
đồng . Tuy nhiên, đến lần
giao hàng thứ 3 thì Hưng Thịnh đã không thực hiện hợp đồng . Nếu theo quy điṇ h tại Điều 301 thì Vạn An chỉ có thể phạt vi phạm Hưng Thịnh trên phần hợp đồng bị
vi pham
là 1.000 tấn chứ không phải là 3.000 tấn là cả hơp
đồng.
Đối với những hợp đồng mà phần vi phạm có thể được tính cụ thể như ví dụ
trên thì quy điṇ h này không mấy khó khăn cho viêc
thưc
thi . Nhưng trên thưc
tế về
quan hê ̣hơp
đồng hơp
tác thì không phải hơp
đồng nào cũ ng có thể tính toán rõ
ràng phần hợp đồng bị vi phạm . Nếu như đó là môt
hơp
đồng dic̣ h vu ̣hay môt
công viêc
phải thưc
hiên
như v ụ việc sau đây thì việc xác định sẽ khó khăn hơn
nhiều: Công ty cổ phần Thành Công ký hơp đồng với công ty TNHH Quảng cáo
Sông Xanh để thưc
hiên
môt
chương trình quảng cáo cho dòng sản phẩm mới của
Thành Công với tổng giá trị hợp đồng là 01 tỷ VNĐ trong thời hạn 01 năm. Tuy
nhiên, khi đang thưc
hiên
hơp
đồng , Sông Xanh đã tự ý không thưc
hiên
tiếp .
Trong hơp
đồng giữa Thành Công và Sông Xanh có điều khoản phaṭ vi pham la
8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm . Nhưng để có thể xác điṇ h giá tri ̣nghia phạm trong trường hợp này thì không hề dễ dàng.
vu ̣bi ̣vi
Để không bi ̣vướng mắc trong các quy điṇ h trên của pháp luât , không ít các
trường hơp
, các bên đã ký kết hợp đồng với điều khoản phạt vi phạm như sau :
“Nếu bên nào vi phạm hợp đồng thì ngoài việc phải bồi thường thiệt hại theo qui định còn phải trả cho bên kia một số tiền gọi là tiền phạt vi phạm hợp đồng tương
đương 8% giá trị hợp đồng”. Vây
khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án có chấp nhân
thỏa thuận phạt vi phạm này hay không ? Vì mặc dù đây là thỏa th uân tự nguyên
của các bên , nhưng nó laị trái quy điṇ h của pháp luât
. Vây
liêu
pháp luâṭ có nên
quy điṇ h môt
mứ c phaṭ vi pham
trên tổng giá tri ̣hơp
đồng như trên để đơn giản
hóa vấn đề không?
Trên thưc
tế của các hơp
đồ ng hơp
tác thì các bên sử dun
g biên
pháp phaṭ vi
phạm như là một chế định để “phòng ngừa” và “trừng phạt” bên vi phạm hợp
đồng. Vì thế, các bên có thể thỏa thuận mức phạt vi phạm rất cao , thâm
chí lên đến
100% hay 200% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm . Tuy nhiên, theo những phân tích ở
trên thì đây là thỏa thuân
trái với quy điṇ h của pháp luât
. Theo quy điṇ h thì những
thỏa thuận trái với quy định của pháp luật sẽ vô hiệu. Vâỵ , thỏa thuận phạt vi pham
lớn hơn 8% có bị vô hiệu hay không ? Nếu nó bi ̣vô hiêu
thì đồng nghia
với viêc la
không có điều khoản về phaṭ vi phạm và bên vi pham
sẽ không phải chiu
phaṭ vi
phạm. Tuy nhiên, trên thưc
tế xét xử của Tòa án thì Tòa án lại đưa mức phạt vi
phạm về khung đã được quy định của pháp luật thương mại là không quá 8%.
Quyết điṇ h trên của Tòa án có đúng hay không, có cơ sở pháp lý hay không thì vâñ
đang còn bỏ ngỏ . Thiết nghi, cần phải quy điṇ h rõ ràng hơn về vấn đề này để các
chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng sẽ biết được chính xác quyền và nghĩa vụ
của mình, từ đó có thể đưa ra những thỏa thuân
hơp
lý và hợp pháp nhất.
Do quy định pháp luâṭ v ẫn tồn taị những bất câp
như đã đươc
phân tích ơ