tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung. Luật cũng xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung là vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung, việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác về tài sản có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng. Bên cạnh đó, Luật quy định về tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế
riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân , vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Quy định này là một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 1986 so với Luật HN&GĐ năm 1959 (không quy định về tài sản riêng của vợ, chồng). Điểm mới thứ hai c ủa Luật HN &GĐ
năm 1986 thể hiê n trong quy định về chia tài s ản chung của vợ chồng, bổ
sung thêm một trường hợp phân chia tài sản của vợ chồng là nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân . Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 1986 cũng quy đ ịnh cụ thể hơn về nguyên tắc phân chia tài sản tại Điều 42.
Để quy điṇ h cu ̣thể hơn về thành phần khối tài sản chung của vơ ̣ chồng , quyền và nghĩa v ụ của vợ chồng đối với tài sản chung điểm a m ục 3 Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP quy định:
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản thu nhập như
sau:
- Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, tiền thu
nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt mức thu nhập của mỗi bên;
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên;
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 2
- Khái Quát Về Chế Độ Tài Sản Vợ Chồng Pháp Định Trong Pháp Luật Việt Nam
- Chế Độ Tài Sản Vợ Chồng Pháp Định Trong Thời Kỳ Pháp Thuộc
- Nội Dung Chế Độ Tài Sản Vợ Chồng Pháp Định Theo Luật Hn&gđ Năm 2014
- Hoa Lợi, Lợi Tức Phát Sinh Từ Tài Sản Riêng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
- Tài sản mà vợ chồng được cho hoặc được thừa kế chung.
Tài sản được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu trong gia đình, do đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản đó. Vợ hoặc chồng sử dụng tài sản chung của gia đình được đương nhiên coi là sự thoả thuận của hai vợ chồng. Nhưng việc mua, bán, cho hoặc vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn (như: nhà ở, gia súc chăn nuôi như trâu, bò, tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn như máy thu hình, tủ lạnh, xe máy v.v...) thì phải có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chồng đều phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có sự uỷ nhiệm của vợ, chồng cho mình ký thay.
Điểm b muc
3 Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP hướng dân
chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn, khi một bên chết hoặc một bên yêu cầu chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại (chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân).
Như vậy, từ khi Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời, chế động cộng đồng toàn sản ở Luật HN&GĐ năm 1959 được thay thế bằng chế độ cộng đồng tạo sản và chế độ tài sản của vợ chồng pháp định đã được quy định rõ nét hơn, cụ thể hơn. Tuy nhiên, nhiều quy điṇ h của Luâṭ vẫn mang tính khái quát, định khung, chưa dự liệu được hết các trường hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa vợ, chồng nên khi áp dụng vào thực tế còn nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc.
* Luật HN&GĐ năm 2000
Luật HN &GĐ năm 2000 đươc
Quốc hôi
khóa X , kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 09/6/2000. Luâṭ gồm 13 chương 110 điều, là hệ thống các quy định về chế độ HN&GĐ trên cơ sở pháp lý là Hiến pháp năm 1992.
Nhìn chung, Luật HN&GĐ năm 2000 kế thừa nhiều nội dung chế độ tài sản vợ chồng pháp định của Luật HN&GĐ năm 1986, đồng thời bổ sung những quy định mới nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc còn tồn tại
mà Luật HN&GĐ chưa giải quyết được. Những nội dung được bổ sung cụ thể là: Bổ sung nguyên tắc suy đoán tài sản chung tại khoản 3 Điều 27: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”; trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện tại Điều 25; quy định việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận tại khoản
3 Điều 28; chiếm hữu, sử dung, điṇ h đoaṭ tài sản riêng t ại Điều 33; quy định
việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận tại khoản 2 Điều 29.
* Luật HN&GĐ năm 2014
Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014, gồm 9 chương, 133 điều. Về chế đô ̣tài sản của vơ ̣
chồng, Luâṭ bổ sung quy điṇ h về chế đô ̣tài sản của vơ ̣ chồng theo thỏa thuân .
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định được quy định tại các điều từ Điều 29 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, chế độ tài sản vợ chồng pháp định có những điểm mới nổi bật trong quy định thành phần khối tài sản chung của vợ chồng; quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung; quy định về việc định đoạt tài sản chung; quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng; quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân;
quy định về tài sản riêng và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng, cũng như
nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung…
Nói chung, so với các Luật HN&GĐ trước đây, Luật HN&GĐ năm 2014 đã thể hiện được sự đầy đủ, rõ ràng, cụ thể về chế độ tài sản vợ chồng, giải quyết được các vấn đề còn vướng mắc, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng pháp luật trong thực tế.
1.4. CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT HN&GĐ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
Trên cơ sở điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, các quốc gia quy định chế độ tài sản vợ chồng phù hợp. Sau đây, xin được điểm qua một số nội dung cơ bản của chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật HN&GĐ của một số nước:
* Cộng hòa Pháp
Giống như pháp lu ật của h ầu hết các quốc gia, BLDS Công hòa Pháp
dự liệu hai loại chế độ tài sản vợ chồng là chế độ tài sản vợ chồng pháp định và chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận. Điều 1387, 1400 BLDS Cộng hòa
Pháp (Đao
luật số 65-570 ngày 13/7/1965) quy định:
Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy đinh sau đây…(Điều 1387)
Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản (Điều 1401).
Theo đó, chế độ tài sản vợ chồng pháp định được coi như một giải pháp dành cho các cặp vợ chồng không xác lập hôn ước, thỏa thuận về tài sản khi xác lập quan hê ̣hôn nhân , chỉ được áp dụng trong trường hợp vợ, chồng không có thỏa thuận riêng điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản.
Nội dung của chế độ tài sản vợ chồng trong BLDS Cộng hòa Pháp là
chế đô ̣côn
g đồng tao
sản . Điều 1401 quy định: “Tài sản cộng đồng gồm
những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ”.
Ngoài ra, tại Điều 1402 BLDS Cộng hòa Pháp quy định về nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng, như sau: “Mọi tài sản, dù là động sản hay bất động sản, đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, nếu không chứng minh được đó là tài sản riêng của vợ hoặc của chồng theo quy định của pháp luật”.
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại các điều từ 212 đến 226 dựa trên nguyên tắc vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dạy dỗ và chuẩn bị tương lai cho con cái (Điều 213). Cụ thể là quy định việc đóng góp vào chi tiêu của gia đình, bảo vệ chỗ ở của gia đình; quyền tự chủ của cá nhân vợ, chồng trong các giao dịch dân sự vì nhu cầu của gia đình; quy định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng.
* Thái Lan
Cũng giống như BLDS Cộng hòa Pháp, Bô ̣Luâṭ dân sự và thương maị Thái Lan quy đ ịnh chế độ tài sản vợ chồng pháp định là giải pháp dành cho các cặp vợ chồng không xác lập hôn ước, thỏa thuận về tài sản [25]. Cụ thể Điều 1465 quy định:
Khi vợ chồng không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ trước khi kết hôn, thì quan hệ giữa họ và tài sản sẽ được điều chỉnh bởi những quy định của chương này. Bất cứ thỏa thuận nào trong điều khoản trước khi thành hôn trái với trật tự công cộng, đạo đức hoặc quy định là quan hệ giữa hai vợ chồng về tài sản đó sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước ngoài thì vô hiệu
Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định tương đối cụ thể về căn cứ xác lập tài sản chung tại Điều 1474, thành phần khối tài sản chung, bao gồm:
- Tài sản vợ chồng tao ra trong thời kì hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kì hôn nhân thông qua một di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong các văn bản này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung;
- Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng;
- Tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng không chứng minh được nó là của riêng một bên vợ, chồng thì tài sản đó dược coi là tài sản chung.
Pháp luật Thái Lan cũng đã có những quy định về phân chia tài s ản chung của vợ chồng. Trong đó, chỉ quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong các trường hợp cụ thể sau:
- Trường hợp một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung (Điều 1488)
- Một bên vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lí tài sản chung (Điều 1484)
- Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản (Điều 1491); bị tuyên mất năng lực hành vi và người kia bị coi là không thích hợp để làm người giám hộ (Điều 1598) [5].
* Trung Quốc
Khác với Pháp và Thái Lan, pháp luật HN&GĐ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định một loại chế độ tài sản vợ chồng là chế độ tài sản pháp định. Đây là căn cứ duy nhất để xác định tài sản của vợ chồng với nội dung là chế độ cộng đồng tạo sản. Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản
riêng ngoài quy định trên” [25].
Về nội dung của chế độ tài sản, Điều 17 quy định:
Trong thời gian còn duy trì quan hệ hôn nhân những tài sản dưới đây thuộc về sở hữu chung của hai vợ chồng:
1. Lương, tiền thưởng;
2. Lợi nhuận từ sản xuất và kinh doanh;
3. Lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức;
4. Tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định tại điều 18 chương 3 của luật này;
5. Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung.
Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung, hai vợ chồng bình đẳng về quyền xử lí
Tuy nhiên, Luật Hôn nhân của Trung Hoa cũng đặt ra những quy định mở, tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng, cụ thể: vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản của cá nhân vợ, chồng theo quy định tại Điều 19:
Hai vợ chồng có thể quy ước những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân còn duy trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở hữu cá nhân, sở hữu chung hoặc sở hữu cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ phận. Quy ước được ghi lại bằng văn bản. Nếu không có quy ước hoặc quy ước không rõ ràng, áp dụng thích hợp theo quy định của điều 17 và 18 luật này. Quy ước về những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân đang được duy trì và những tài sản trước hôn nhân, có sức ràng buộc đối với cả hai phía.
Luật cũng quy định về quyền có tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 18 như sau:
Với một trong những tình hình dưới đây, tài sản thuộc về một bên vợ hoặc chồng:
1, tài sản của một bên trước hôn nhân;
2, một bên vì thân thể có thương tích có được phí chữa trị, phí trợ cấp cuộc sống của người tàn tật;
3, những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một bên vợ hoặc chồng;
4, những nhu yếu phẩm chuyên dùng của một bên;
5, những tài sản khác mà cần thuộc về một bên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật như là một tất yếu khách quan và là một chế định cơ bản, có vai trò quan trọng trong pháp luật HN&GĐ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia điều chỉnh chế độ tài sản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, đạo đức, tập quán của mình.
2. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ tài sản của vợ chồng do pháp luật dự liệu trước về căn cứ xác định các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó trong mối quan hệ giữa hai vợ, chồng và trong quan hệ với người thứ ba; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ
chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng.
3. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định phản ánh trung thực và chính xác trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của Nhà nước; quy định cụ thể căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba; tạo cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc với người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng; là những quy định mang tính định hướng cho các cặp vợ chồng lựa chọn thỏa
thuân
chế đô ̣tài sản phù hơp
quy điṇ h của pháp luật.
4. Hệ thống pháp luật HN&GĐ nói chung và chế độ tài sản vợ chồng nói riêng ở nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ, chế độ tài sản pháp định được quy định ngay cả trong cổ Luật, từ những quy định mang tính khái quát, cô đọng, đã ngày càng được hoàn thiện, cụ thể qua các văn bản Luật HN&GĐ. Về nội dung, chế độ tài sản vợ chồng pháp định đi từ chế độ cộng đồng toàn