Vẫn còn rất nhiều quan điểm khác nhau tranh luận về việc liệu trao cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ quyền được phân biệt đối xử trên thị trường là tốt hay không khi nhìn từ khía cạnh kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá. Từ quan điểm của những người ủng hộ thị trường mở và tự do cạnh tranh thì không thể chấp nhận được việc dùng quyền sở hữu trí tuệ để ngăn cản thương mại. Trong khi đó các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ lại cho rằng có những điểm tích cực nhất định của việc phân biệt đối xử trên thị trường và việc phân biệt về giá cả hàng hoá, dịch vụ.
Trước cũng như sau khi có Hiệp định TRIPS, các nước áp dụng các chính sách, quy định khác nhau đối với vấn đề khai thác hết quyền sở hữu trí tuệ. Thực trạng của vấn đề này ở châu Âu và Hoa Kỳ diễn ra rất phức tạp khi các nước không chỉ áp dụng các cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề liệu tình trạng đã khai thác hết quyền này mang tính quốc gia, khu vực hay quốc tế mà còn phân biệt trong việc áp dụng quy định này đối với từng loại quyền sở hữu trí tuệ. Các Toà án của Hoa Kỳ không thống nhất với nhau về việc ủng hộ hay không ủng hộ quy định về quyền chấm dứt ở phạm vi quốc tế. Trong khi đó, Toà án tư pháp châu Âu đã đưa ra quyết định ủng hộ "học thuyết về tình trạng đã khai thác hết quyền trong phạm vi cộng đồng". Nói chung, hầu hết các nước trên thế giới đều ủng hộ quan điểm quyền sở hữu trí tuệ chấm dứt sau lần bán đầu tiên sản phẩm mang đối tượng liên quan ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Điều này nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại thế giới, đồng thời bảo đảm lợi ích của các bên thứ ba và hạn chế hợp lý quyền của chủ sở hữu sáng chế, theo đó đối với một sản phẩm mang sáng chế được bảo hộ, chủ sở hữu sáng chế chỉ được hưởng lợi một lần, đó chính là lần đầu tiên đưa sản phẩm ra thị trường, sau đó bất kỳ người nào cũng có quyền thực hiện tiếp các hành vi thương mại đối với sản phẩm đó mà chủ sở hữu sáng chế không có quyền can thiệp.
Chính vì sự khác biệt này mà trong quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định TRIPS, các nước đã không thể thống nhất được với nhau về vấn đề "khai
thác hết quyền sở hữu trí tuệ". Có quá nhiều cách tiếp cận và quan điểm về vấn đề này và pháp luật của các nước cũng rất khác nhau, quyền lợi của các nước phát triển và đang phát triển cũng khác nhau làm cho các nước không thể đi đến thoả thuận được với nhau. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mối tương quan về quan hệ lợi ích giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển cũng như tương quan lợi ích giữa chủ sở hữu trí tuệ với lợi ích của xã hội. Vấn đề mấu chốt đặt ra là phạm vi quyền của chủ sở hữu sẽ được mở rộng đến mức nào hay nói cách khác là chủ sở hữu trí tuệ được kiểm soát sản phẩm mang đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ của mình đến giai đoạn nào của quá trình lưu thông sản phẩm. Chính vì vậy, Điều 6 của Hiệp định đã quy định theo hướng các thành viên có quyền tự quyết định về việc xác định quyền sở hữu trí tuệ chấm dứt ở phạm vi quốc gia, khu vực hay quốc tế. Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và sức khoẻ cộng đồng một lần nữa khẳng định "Việc quy định hiệu lực của các quy định trong hiệp định TRIPS liên quan tới trạng thái đã khai thác hết quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền của mỗi thành viên. Các thành viên được quyền đặt ra quy định của mình về trạng thái đã khai thác hết quyền sở hữu trí tuệ mà không làm ảnh hưởng đến quy định về chế độ đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc quy định tại Điều 3 và Điều 4 (của Hiệp định TRIPS." Trên thực tế, liên quan đến quyền ngăn cấm của chủ sở hữu sáng chế, hầu hết các quốc gia hiện nay áp dụng học thuyết chấm dứt quyền sau lần bán đầu tiên trên phạm vi quốc tế.
Thứ ba, trong những tình huống nhất định, Nhà nước có thể cho phép bên thứ ba hoặc nhân danh mình sử dụng sáng chế mà không cần đến sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế.
Li-xăng cưỡng bức (theo Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam, thuật ngữ này được gọi là "bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng" theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền) thể hiện rất rõ sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích xã hội trong những tình huống nhất định. Về cơ bản, khi đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu sáng chế có toàn quyền quyết
định việc sử dụng sáng chế của mình. Tuy nhiên, trong một số tình huống nhất định khi chủ sở hữu sáng chế lạm dụng quyền hoặc nhằm để bảo đảm an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng, nhà nước có thể cho phép các bên thứ ba hoặc nhân danh mình sử dụng sáng chế được bảo hộ mà không cần có sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế.
Lixăng cưỡng bức đối với sáng chế là một trong những công cụ kinh tế quan trọng đối với các nước đang phát triển nhằm giải quyết khoảng cách công nghệ với các nước phát triển. Đây là một biện pháp hiệu quả và linh động nhất và tạo điều kiện cho các nước ngăn cản những hạn chế nghiêm trọng trong việc bảo hộ quyền đối với sáng chế.
Quyền sở hữu công nghệ vẫn còn duy trì tập trung ở các nước phát triển, nơi có một lượng vốn lớn được đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển. Các doanh nghiệp của nước phát triển thường rất do dự trong việc cấp li xăng công nghệ mới với giá cả và điều kiện cho phép doanh nghiệp của nước đang phát triển cạnh tranh một cách có hiệu quả trên thị trường thế giới. Mặc dù Hiệp định TRIPS đã đề cập đến các quy định khuyến khích việc chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển và đang phát triển, tuy nhiên trên thực tế thì hiệu quả của hoạt động này rất hạn chế. Lixăng cưỡng bức thực sự là cần thiết để bảo đảm việc chuyển giao công nghệ trở thành hiện thực (giữa các nước phát triển và đang phát triển).
Tuy nhiên, các nước đang phát triển cấp lixăng cưỡng bức phải đối mặt với nguy cơ "trả đũa" về kinh tế từ các nước phát triển (thực tế đã xảy ra, ví dụ năm 2008, Thái Lan đã bị Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) xếp vào danh sách các nước bị "ưu tiên theo dõi" theo Điều 301 của Luật Thương mại Hoa Kỳ do đã cấp li-xăng cưỡng bức đối với sáng chế của Hoa Kỳ để sản xuất thuốc chữa HIV/AIDS ở Thái Lan). Việc cấp li-xăng cưỡng bức cũng có thể tạo ra môi trường không tốt cho đầu tư và ảnh hưởng tới quan hệ quốc tế, do vậy phải được thể hiện cụ thể và chặt chẽ trong khuôn khổ pháp lý quốc tế. Điều 31 Hiệp định TRIPS đã quy định rất cụ thể về các điều kiện cấp li-xăng
Có thể bạn quan tâm!
- Những Tác Động Tiêu Cực Có Thể Nảy Sinh Từ Hệ Thống Bảo Hộ Sáng Chế
- Trong Quy Định Về Đối Tượng Và Điều Kiện Bảo Hộ
- Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế - 5
- Cân Bằng Lợi Ích Trong Các Quy Định Về Đối Tượng Không Được Bảo Hộ Là Sáng Chế
- Cân Bằng Lợi Ích Trong Các Quy Định Về Xác Lập Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Sáng Chế
- Quyền Ngăn Cấm Người Khác Sử Dụng Sáng Chế
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
cưỡng bức và được cụ thể hơn tại Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và sức khoẻ cộng đồng (năm 2001) cũng như Nghị định thư sửa đổi Hiệp định TRIPS (năm 2005).
Mặc dù Hiệp định TRIPS cho phép và luật pháp của các nước đang phát triển đều có quy định về việc cấp li-xăng cưỡng bức đối với sáng chế nhưng việc áp dụng quy định này vào thực tế không dễ khả thi, điển hình là trong lĩnh vực sáng chế dược phẩm. Trên thực tế, li-xăng cưỡng bức thường được cấp để sử dụng sáng chế dược phẩm (thuộc sở hữu của các công ty dược phẩm đa quốc gia). Tuy nhiên, năng lực công nghệ hạn chế của các doanh nghiệp dược phẩm ở các nước đang phát triển trở thành rào cản cho việc áp dụng quy định về li-xăng cưỡng bức. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể cho phép các công ty dược phẩm trong nước sử dụng sáng chế dược phẩm của các công ty nước ngoài nhưng các công ty này không đủ trình độ công nghệ để tiến hành sản xuất. Thực tế này đã dẫn đến việc ra đời của Nghị định thư sửa đổi Hiệp định TRIPS, trong đó cho phép xuất khẩu sản phẩm được sản xuất theo li-xăng cưỡng bức sang các nước khác cũng có nhu cầu cấp li-xăng cưỡng bức nhưng không có khả năng công nghệ để sản xuất sản phẩm theo li-xăng đó (với những điều kiện bổ sung nhất định được quy định cụ thể trong Nghị định thư này).
Thứ tư, chủ sở hữu sáng chế không có quyền ngăn cấm hành vi sử dụng sáng chế của người có quyền sử dụng trước sáng chế.
Trên thực tế, nhiều người có thể có cùng ý tưởng cũng như các giải pháp giống hoặc tương tự nhau để giải quyết một vấn đề. Tuy nhiên, bảo hộ sáng chế mang tính độc quyền, có nghĩa là trong một thời gian nhất định, đối với một giải pháp cụ thể thì quyền đối với sáng chế chế chỉ thuộc về một người (hoặc một nhóm người trong trường hợp quyền thuộc sở hữu chung). Sẽ là không công bằng nếu nhà nước dành toàn bộ độc quyền cho một người chỉ đơn thuần vì người đó thực hiện việc nộp đơn đăng ký sáng chế sớm nhất và được cấp bằng độc quyền. Do vậy, ngay trong Công ước Paris về bảo hộ
sở hữu công nghiệp (thông qua năm 1883) đã có quy định về quyền của người sử dụng trước sáng chế. Theo đó, trong trường hợp trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế đồng nhất với sáng chế trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi bằng độc quyền sáng chế được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế được bảo hộ. Trong trường hợp này, các chủ thể sáng tạo đồng thời và độc lập tạo ra sáng chế trùng với sáng chế được bảo hộ sẽ được bảo đảm lợi ích tối thiểu nhất định.
Thứ năm, chủ sở hữu sáng chế không được thực hiện một số hành vi nhất định khi chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.
Để tránh lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS còn có quy định tại Điều 40 cho phép các thành viên đưa vào pháp luật của mình những quy định về những trường hợp bị coi là lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ, gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động cạnh tranh trên thị trường và bị cấm thực hiện.
Những ví dụ điển hình về việc lạm dụng quyền đối với sáng chế trong quá trình khai thác, chuyển quyền sử dụng sáng chế là đưa vào hợp đồng li- xăng những điều khoản hạn chế quyền lựa chọn những sản phẩm phụ, sản phẩm kèm theo hoặc hạn chế nguồn cung cấp nguyên vật liệu, hạn chế thị trường tiêu thụ mà những hạn chế này không xuất phát từ độc quyền của chủ sở hữu sáng chế. Luật pháp của các nước, đặc biệt là các nước phát triển quy định rất chặt chẽ những điều kiện này để bảo đảm hành vi sử dụng, khai thác quyền đối với sáng chế không làm thủ tiêu môi trường cạnh tranh, từ đó làm ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội nói chung.
1.5.1.5. Trong các quy định về bảo vệ quyền đối với sáng chế
Liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ, ngoài việc quy định những biện pháp đầy đủ và thoả đáng mà các thành viên phải có để bảo vệ
(thực thi) quyền đối với sáng chế, Hiệp định TRIPS cũng có những giới hạn nhất định nhằm bảo đảm cân bằng với lợi ích của xã hội. Cụ thể, trong các thủ tục thực thi quyền, Hiệp định TRIPS thể hiện rất rõ ràng quan điểm coi quyền đối với sáng chế là một quyền dân sự và có thể nói các thủ tục dân sự sẽ được áp dụng (chủ yếu) đối với các hành vi xâm phạm quyền. Hiệp định TRIPS không quy định buộc các nước phải coi hành vi xâm phạm quyền sáng chế là một tội phạm. Hơn nữa, quy định về việc kiểm soát biên giới cũng không bắt buộc phải áp dụng đối với đối tượng này. Luật pháp của hầu hết các nước trên thế giới cũng quy định việc thực thi quyền đối với sáng chế được áp dụng theo thủ tục dân sự. Rất ít nước có hệ thống thực thi quyền đối với sáng chế bằng biện pháp hành chính như Trung Quốc, Việt Nam, theo đó các cơ quan hành chính Nhà nước (hoạt động bằng tiền thuế của người dân) chủ động thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền cho chủ sở hữu sáng chế bất kể chủ sở hữu sáng chế có yêu cầu hay không.
Tóm lại, có thể thấy rằng các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế của các nước trên thế giới cũng như trong các khuôn khổ quốc tế đã rất quan tâm và thể hiện rõ vấn đề cân bằng lợi ích giữa các nhóm thủ thể liên quan. Việc cân bằng lợi ích được thể hiện ở mọi khía cạnh, từ việc quy định các đối tượng được bảo hộ, đối tượng không được bảo hộ, điều kiện bảo hộ, thời hạn bảo hộ, phạm vi quyền cũng như việc thực thi quyền đối với sáng chế.
1.5.2. Ở Việt Nam
Hệ thống bảo hộ sáng chế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và vấn đề cân bằng lợi ích trong việc bảo hộ sáng chế theo đó cũng có những sự thay đổi nhất định.
1.5.2.1. Giai đoạn 1981 - 1988
Hệ thống bảo hộ sáng chế của Việt Nam trong giai đoạn này phản ánh đậm nét đặc trưng của nền kinh tế tập trung bao cấp xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, quy định nổi bật là sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng
tác giả sáng chế, có nghĩa là quyền sở hữu mọi sáng chế của người Việt Nam đều thuộc về Nhà nước và người tạo ra sáng chế chỉ được hưởng quyền với danh nghĩa là "tác giả sáng chế". Tác giả sáng chế chỉ được hưởng thù lao và các giá trị tinh thần khác khi sáng chế được cấp bằng và được khai thác chứ không có quyền sở hữu để thực thi đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu.
Do không bảo hộ sáng chế như một quyền tài sản thuộc quyền tư hữu, lợi ích của người trực tiếp sáng tạo ra sáng chế không được bảo đảm, do đó số lượng sáng chế được bảo hộ ở Việt Nam trong giai đoạn này cũng rất hạn chế. Xét ở nghĩa rộng, lợi ích của xã hội cũng không được bảo đảm vì không có nhiều sáng chế được tạo ra do thiếu động lực kinh tế thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Xã hội không được hưởng các thành quả từ hoạt động sáng tạo. Tựu chung lại, hệ thống bảo hộ sáng chế của Việt Nam trong giai đoạn này chưa phải là hệ thống bảo hộ hiện đại, do đó vấn đề cân bằng lợi ích của các chủ thể liên quan nhằm bảo đảm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo cũng như thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm lợi ích của xã hội nói chung cũng chưa được quan tâm đúng mức.
1.5.2.1. Giai đoạn 1989 - 1994
Sau khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới và khởi động xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và sáng chế nói riêng cũng thay đổi dần. Điển hình của xu hướng thay đổi này được đánh dấu bằng việc Nhà nước ban hành Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (năm 1989). Theo Pháp lệnh này, sáng chế được bảo hộ hoàn toàn theo cơ chế độc quyền và không còn tồn tại khái niệm "Bằng tác giả sáng chế".
Các quy định về đối tượng được bảo hộ là sáng chế, tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế, phạm vi quyền của chủ sở hữu sáng chế, thời hạn bảo hộ sáng chế, các ngoại lệ quyền đối với sáng chế v.v... cũng có những thay đổi. Theo đó, có hai loại giải pháp kỹ thuật được bảo hộ dưới hai tên khác nhau và với một
số tiêu chí khác nhau. Giải pháp kỹ thuật có tính mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp được gọi là sáng chế, được bảo hộ trong thời hạn 20 năm. Giải pháp kỹ thuật có tính mới so với trình độ kỹ thuật ở Việt Nam và có khả năng áp dụng công nghiệp được gọi là giải pháp hữu ích và được bảo hộ trong thời hạn 6 năm.
Chủ sở hữu sáng chế có quyền sử dụng, định đoạt sáng chế và chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác. Quyền của chủ sở hữu sáng chế bị giới hạn và hạn chế trong một số trường hợp nhất định. Có thể nói các quy định của pháp luật về bảo hộ sáng chế trong giai đoạn này về cơ bản theo mô hình của luật sáng chế hiện đại trên thế giới.
1.5.2.1. Giai đoạn 1995 đến nay
Với việc ban hành Bộ luật Dân sự năm 1995, được thay thế bởi Bộ luật Dân sự năm 2005, và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, về cơ bản các quy định về bảo hộ sáng chế của Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, trong giới hạn cho phép, nhiều quy định về bảo hộ sáng chế của Việt Nam cũng được xây dựng trên quan điểm bảo vệ lợi ích của quốc gia, của người dân do Việt Nam là nước đang phát triển, trong khi đó vẫn bảo đảm mục tiêu cơ bản là sử dụng hệ thông sáng chế để thúc đẩy hoạt động đổi mới, chuyển giao công nghệ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở cho quy định này chính là chính sách của nhà nước đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được thể hiện tại Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ, theo đó, "Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh". Những quy định pháp luật cụ thể hiện hành liên quan đến cân bằng lợi ích trong quá trình bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế sẽ được phân tích tại chương 2 sau đây.