Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chúng ta cần khuyến khích sự phê phán và có nhiệm vụ phê phán những cái xấu, cái không đúng còn tồn tại trong xã hội ta, để loại trừ nó, để phá bỏ nó” (Xây dựng nền văn hóa văn nghệ ngang tầm vóc dân tộc ta, thời đại ta, NXB Sự Thật, H. 1979, tr47). Nền văn học hiện thực XHCN đã vượt qua văn học hiện thực phê phán ở nhiệm vụ lịch sử mới của nó là khẳng định xu thế phát triển theo chiều hướng tiến bộ và chiến thắng của hiện thực mới
- hiện thực tốt đẹp của xã hội XHCN. Văn học hiện thực XHCN của chúng ta chỉ thực sự là vũ khí đấu tranh cách mạng, đấu tranh cho những tư tưởng nhân văn của con người khi nó đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ phê phán và khẳng định như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là nó phải “phò chính trừ tà”.
Nhiều tác giả văn học thời kỳ hiện đại đã ngày đêm trăn trở, viết nhiều trang sách để phản ánh chân thực sự phức tạp, bề bộn của cuộc sống. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp thì Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này. Mỗi người một tâm sự, một cảm nhận khác nhau, nhưng ở đó tất cả đều là nỗi đau nhân thế khi phải chứng kiến sự thực cay nghiệt của cuộc sống. Sự xuống dốc trong quan niệm sống, thói tư duy giáo điều máy móc, sự tôn thờ chủ nghĩa vật chất, sự coi trọng quyền lực, con người sa đoạ, độc ác, giả dối… Muôn vàn những nhức nhối của cuộc sống được miêu tả trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái khiến ta thấm thía hơn bao giờ hết cái đa đoan, đa sự của cuộc sống thường nhật hôm nay.
Viết không chỉ là phê phán thuần tuý, phủ định sạch trơn những mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội, viết nhiều về cái xấu, cái ác nhưng các tác giả đều không hề mất đi niềm tin vào con người và cuộc sống. Khát khao hướng thiện và xây dựng một cuộc sống tươi đẹp trong tâm hồn mỗi con người chính là thông điệp mà các tác giả muốn gửi tới bạn đọc.
1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái
1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi
Macxim Goorky đã từng nói: “văn học là nhân học”, văn học luôn quan tâm đến đời sống của con người, đến thân phận con người và có nhiều khám phá mới về con người. Văn học nói chung và các sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái nói riêng đều quan tâm đến giá trị cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Cho nên, bên cạnh những khía cạnh ưu việt đáng được ca ngợi, cổ vũ của xã hội thì cũng cần lên án, phê phán những khiếm khuyết, những kẽ hở của xã hội đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác nảy nở, hoành hành. Một trong những điều nhức nhối mà văn học hiện đại đề cập đến chính là thực tế một số không nhỏ con người đang ngày càng biến chất, tha hoá nhân cách vì mải mê chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi. Trong cuộc sống hiện nay, không ít “con người vì cái lợi vật chất đang hèn đi, tầm thường đi” (Ma Văn Kháng). Nói đến những yếu tố khiến con người rơi vào tình trạng tha hoá nhân cách thì không thể không kể đến sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền có sức mạnh chi phối đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Đứng trước sự cám dỗ của đồng tiền, con người không biết kìm hãm lòng tham và dễ dàng trở thành nô lệ của đồng tiền, trở nên tha hoá nhân cách.
1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách
Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là một trong số các tác giả thường đi sâu khai thác về mảng đề tài thế sự đời tư của con người hiện đại. Qua những tác phẩm của ba nhà văn, ta thấy một xã hội đa chiều, đa màu sắc được tái hiện một cách sinh động dưới ngòi bút đậm tình người, với chiều sâu của tâm tư, với khao khát cháy bỏng về một cuộc sống nhân ái, tốt đẹp. Trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, bên cạnh nội dung ca ngợi những trí thức giàu phẩm chất, tâm huyết thì các tác giả còn chú trọng tới việc xây dựng
nên loại trí thức tha hoá về nhân cách. Trí thức tha hoá về nhân cách là những con người vốn mang danh là trí thức nhưng nhân cách đã bị huỷ hoại mạnh mẽ bởi đồng tiền, bởi danh vị, họ đã lợi dụng quyền lực của mình để gây ra bao nỗi éo le, bi kịch cho những người có tài, có tâm, những con người có đạo đức trong xã hội. Đáng tiếc và đau đớn nào bằng sự tha hoá của kẻ có học lại bắt nguồn, có mầm, cõ rễ từ những ham hố cá nhân và trước sức mạnh của vật chất thì sự tha hoá của người tri thức còn đáng sợ gấp ngàn lần hơn sự tha hóa của kẻ vô học.
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái - 1
- Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái - 2
- Trí Thức Giả Danh, Những Người Đội Lốt Trí Thức Nhưng Bất Tài, Vô Dụng
- Giá Trị Con Người, Giá Trị Hạnh Phúc Gia Đình Bị Coi Thường Từ Những Toan Tính Ích Kỷ
- Cơ Chế Xã Hội Dồn Ép Con Người Lương Thiện Vào Những Bi Kịch Trong Cuộc Sống
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Ma Văn Kháng bắt đầu đến với văn chương từ năm 1959 với truyện ngắn Phố cụt trong thời điểm cuộc chiến tranh của dân tộc đang diễn ra cam go, khốc liệt. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, Ma Văn Kháng có quan niệm khác nhau về con người. Trong sáng tác sử thi của Ma Văn Kháng, ông thường viết với mạch cảm xúc chung của văn học cách mạng với sự phân định rõ ràng của hai thái cực: tốt - xấu, ta - địch, bạn - thù. Sáng tác giai đoạn đầu của Ma Văn Kháng chủ yếu ca ngợi con người mới của thời chiến tranh vệ quốc có đau thương, mất mát mà hào hùng. Bước chân của ông nối tiếp nhà văn Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Mạc Phi…để khẳng định những giá trị cao đẹp trong tâm hồn của con người miền núi nói chung và đồng bào Tây Bắc nói riêng. Bước sang giai đoạn mới, cùng với sự chuyển mình của đất nước, dân tộc, thì văn học cũng có những sự thay đổi lớn. Nếu các tác phẩm mang tính sử thi trọng tâm tạo dựng bức tranh lịch sử hoành tráng về một thời đại chiến tranh có mất mát hy sinh mà không kém phần hào hùng của các dân tộc vùng biên ải thì tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng nhiều khi khiến cho người đọc cảm thấy nhà văn đang đối thoại với cuộc sống, đối thoại với con người, đối thoại với những dòng chảy cảm xúc của nhân vật mà ông đang đào sâu, tìm tòi để thể hiện chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Những sự kiện đời sống trong tác phẩm của Ma Văn Kháng là những sự kiện của cuộc sống đan kết bởi vô vàn điều bất ngờ, nhỏ nhặt. Khác với cái quyết liệt trong đời sống chiến tranh, người ta có thể nhận định rõ được ranh giới giữa hai thái cực tốt - xấu, trắng - đen, chính - tà của cuộc
sống, trong cuộc sống thời hậu chiến bề ngoài có vẻ như bình yên nhưng trong lòng đầy mâu thuẫn đã trở thành cuộc chiến nội tâm dai dẳng hiện diện trong mối con người, mỗi số phận, mỗi gia đình. Thật dễ hiểu vì sao sau chiến tranh, con người không còn ở thế giằng co giữa sự sống và cái chết nhưng trong tâm hồn luôn luôn cảm thấy chông chênh, lạ lẫm với chính mình.
Với giọng văn mềm mại, hiền lành nhưng quyết liệt, Ma Văn Kháng viết về những mặt trái của xã hội với nội dung nhấn mạnh ma lực của đồng tiền đã làm hoại suy ý chí, tình cảm và nhân cách của con người một cách mạnh mẽ. Ma Văn Kháng đã từng khẳng định: “Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền là một hoàn cảnh lắm vi trùng làm cho con người ta bị nhiễm một thứ bệnh mất nhân tính” (Mùa lá rụng trong vườn). Cũng như những nhà văn khác như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng đã không ngần ngại nhấn mạnh giá trị vật chất của đồng tiền ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân tính của con người. Một trong những tác phẩm đề cập đến vấn đề này của ông là: Đám cưới không có giấy giá thú (1988), Côi cút giữa cảnh đời (1989) và Ngược dòng nước lũ (1999).
Đám cưới không có giấy giá thú (1988) ra đời được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt. Đọc tiểu thuyết này, độc giả khó có thể quên được cảm giác xót xa đến não nề dâng trào trong lòng mình bởi vô vàn những trái khoáy ập vào số phận của từng nhân vật. Đây là một tác phẩm phản ánh sâu sắc hình ảnh những con người bị cơn lốc ham muốn vật chất cuốn đi trong nền kinh tế thị trường có vô vàn điều cám dỗ lòng người. Họ đã bị những dục vọng tầm thường, những cơn lốc của ham muốn cuốn trôi một cách mạnh mẽ. Trước thực tế ấy, nhiều người đã bị mất nhân cách, bản lĩnh của mình.
Ma Văn Kháng tập trung phản ánh hiện tượng những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất giá trị bản thân mình một cách sinh động với một tâm trạng buồn đến da diết. Sự sùng bái đồng tiền trở thành biểu hiện bằng cuộc chạy đua đầy cuồng vọng đuổi bắt những món lợi vật chất tầm thường hàng ngày. Sau những
năm tháng chiến tranh gian khổ, con người trở về với một cuộc sống bình yên nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn. Đối mặt với mọi cám dỗ của đồng tiền, nếu không kiên định, con người sẽ trở nên mất phương hướng, rơi vào bóng tối của sự tha hoá biến chất là lẽ đương nhiên. Hình ảnh những nhân vật trong Đám cưới không có giấy giá thú cho ta thấy được một bức tranh đủ màu sắc về những con đường dẫn nhân cách người trí thức rơi vào bùn lầy. Ta thấy ở đó bóng dáng của Xuyến, Trình, Quỳnh, Thảnh, Thầy Thuật. Đối với Ma Văn Kháng, bên cạnh việc ca ngợi những trí thức được nâng lên thành kiểu mẫu của giá trị thì ông còn tập trung bóc tách nhân cách của những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất bản ngã của mình. Với những cán bộ, thầy giáo, học sinh trong miêu tả của ông phần nhiều bị chìm trong lối sống lạnh nhạt, thiếu tình người, một cách sống thờ ơ và vô trách nhiệm với chính tư cách bản thân mình. Ma Văn Kháng nhận ra và xót xa thốt lên một sự thật đau lòng: Học trò giờ lẫn lộn với lưu manh. Cậu học trò Tuẫn - con trai Bí thư Lại đã cậy quyền lực của bố mà hỗn láo, phỉ báng thầy trước mặt bạn bè. Thầy Tự phạt Tuẫn bằng một cái tát thì hắn nói: đời ông từ nay khốn khổ rồi. Bên cạnh đó, cô nữ sinh Trình vốn là một người ngoan ngoãn, chỉ vì bệnh tật và bị bỏ rơi, bị nghèo đói đã trở nên mất niềm tin vào cuộc sống, trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù đời. Còn Xuyến, vợ Tự, do ham muốn vật chất quá độ đã trở thành một người đàn bà đầy bản năng, với một nguyện vọng là giàu có, sung sướng.
Nhân vật thầy Thuật trong Đám cưới không có giấy giá thú là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng trách, anh bị cái lợi vật chất lôi đi dần xa những giá trị cao quý của cuộc sống. Vốn là bạn thân của Tự và Kha, nhưng khác với Tự và Kha là những con người tuy đối diện với sóng gió vùi dập của cuộc đời nhưng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao, Thuật lại rơi vào bi kịch của cơn lốc vị kỷ tầm thường. Buồn vì sự thay đổi của bạn, Tự vẫn luôn tự hỏi vì sao: “Vậy thì từ lúc nào Thuật đã cách xa anh?” Thuật là nạn nhân trong sự giả dối, sự lôi kéo của Cẩm và Dương. Bị Dương và Cẩm vừa ra đòn dụ dỗ vừa ngấm ngầm hành
hạ, Thuật dần dần bị chìm trong cuộc sống mất niềm tin và bị lối sống bất cần, ngạo mạn lôi kéo. Tài năng của Thuật bị xuống dốc bắt nguồn từ sự đố kỵ, mưu chước, sự chèn ép ngáng chân của Cẩm và Dương. Anh trở nên suy đốn, trở thành một kẻ “ngông ngạo khinh bạc và độc địa” [29,266], anh “lạm dụng uy tín của thầy dạy giỏi, lao như điên vào các lớp dạy thêm, thoát ra khỏi cảnh túng bấn” [29,256-257], và “chỉ nhăm nhăm kiếm tiền làm giàu gây bao tiếng xấu đến thanh danh nhà trường, …gây ai oán cho bao gia đình học sinh”. [29,273]. Khi bị kìm hãm quá mức, Thuật đã đánh mất giá trị và tài năng của một người thầy dạy giỏi và đã phát điên chỉ trong một thời gian ngắn. Đau đớn thay và tiếc nuối cho Thuật, từ một người trí thức có bản lĩnh, có tài năng, tâm huyết với nghề nghiệp lại trở thành nạn nhân của thế giới biến động và quay đảo.
Khác với những nhà văn của thế hệ trước, Tạ Duy Anh đặc biệt quan tâm thể hiện trạng thái tinh thần con người hiện đại với tất cả những mặt xấu - tốt của nó. Đời sống hiện thực được phản ánh trong ba cuốn tiểu thuyết của anh: Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân vật (2004), và Thiên thần sám hối (2005) là muôn vàn mặt trái, mặt mâu thuẫn và phức tạp của cuộc sống. Anh đã phản ánh trong tác phẩm của mình hiện thực con người đối xử với nhau bằng sự nhẫn tâm, sự vô tâm và vô ơn. Những dòng suy tưởng, những câu hỏi được đưa ra với sự chua xót khôn nguôi: “Cuộc sống này tồn tại phải chăng bằng sự vờ vĩnh? Chao ôi, bao giờ con người mới gỡ được chiếc mặt nạ phải đeo vào kể cả khi ngủ với tình nhân? Đối với lão, ông Bùi bí thư huyện - chỉ là một thằng ăn cắp mạt hạng. Ông ta ăn cắp từ cái dăm cối cho đến lòng tin của lão và hàng vạn người” [1,61]. “Ai đó chết chứ không phải ta: thằng bé đánh giầy nào đó chết chứ không phải con cháu ta…Thậm chí ý nghĩ ấy khiến chúng ta hoan hỉ, sự hoan hỉ của những người đứng ngoài nỗi bất hạnh, hoặc không khỏi có lúc ta tặc lưỡi “cho chúng nó chết đi, bọn lưu manh” [2,6]. “Đứa nào chết mặc mẹ chúng nó. Không thích sống thì chết liên quan gì đến tôi! Buổi sớm ông đừng có nói chuyện chết chóc nghe chưa? [2,10]. “Án mạng à? Thì đã sao? Liên quan gì đến con Miss của tôi?
[2,12]. “Cô sinh viên oằn mình móc trong túi ra những tờ giấy màu xanh mà tôi đã kể. Ông bác sĩ lạnh lùng đếm lại rồi bỏ vào túi áo blu của ông ta. Khiếp cái tay vừa lầy nhầy máu giờ đã lại trắng muốt. Những tờ giấy màu xanh khiến ông ta phấn chấn hẳn lên, miệng huýt sáo một giai điệu rất nhộn” [3,18]. Chính sự thản nhiên, vô tư, thờ ơ, ích kỷ của con người và lối đối xử vì đồng tiền đã dẫn đến những hậu quả khôn lường, là nguồn gốc cho những bi kịch của số phận con người.
Đi tìm nhân vật là hành trình tìm kiếm chính mình, tìm kiếm bản chất của con người và là tiểu thuyết mang đậm màu sắc triết lý, luôn đặt ra cho bản thân và độc giả phải trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Ai là tôi? Tôi là hắn? Hắn giết tôi? Trong tác phẩm này, nhà văn đã đi tìm những mẫu nhân vật mới phù hợp với con người hiện đại. Con người hiện đại đang có những thay đổi cơ bản và mạnh mẽ cả về hình thức lẫn bản chất. Những thay đổi đến chóng mặt đã khiến cho chúng ta không còn nhận ra mình là ai nữa. Có người nói rằng, tiểu thuyết Ði tìm nhân vật của Tạ Duy Anh mở đầu như một tiểu thuyết trinh thám: một kẻ tình cờ vớ được mẩu báo, vỏn vẹn mấy hàng: nạn nhân là thằng bé đánh giầy, quãng 10-12 tuổi bị một gã đàn ông đâm chết ngay tại chỗ. Hung thủ được tạm mô tả như kẻ mắc chứng thần kinh, ăn mặc sang trọng. Việc truy bắt đang được tiến hành ráo riết. Với sự mở đầu đầy tính nghi vấn như vậy, cả tác phẩm được mở ra với vô vàn câu hỏi, câu hởi lớn nhất vẫn là câu hỏi về tình người.
Tác phẩm viết nhiều về nhân vật “tôi” - Chu Quý, nhưng nếu như nhân vật “tôi” bị ám ảnh bởi những hận thù, thì nhân vật tiến sĩ N lại sống trong cảnh huống tìm kiếm những vị kỷ cá nhân, đi theo sự chỉ đạo của “hắn”, một kẻ vô hình nhưng có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ chỗ nào con người có sự ganh ghét thù hận. Có người ví tiến sĩ N trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh và nhân vật Khuynh trong Người và xe chạy dưới ánh trăng của Hồ Anh Thái là một cặp anh em sinh đôi được tách ra sống ở hai môi trường khác nhau nhưng lại có tính cách tương đồng. Tiến sĩ N luôn sống trong hai trạng thái một là của con người an nhiên, thành đạt trong cuộc đời giả và một kẻ cô đơn cực độ trong những suy
nghĩ về lẽ sống chết trong cuộc đời thật của mình. Bề ngoài là một con người hết sức hoàn hảo “Ông là hình mẫu của một con người tự làm nên sự nghiệp, một nhà khoa học tận tuỵ, một công chức mẫn cán, một người đàn ông điềm đạm và đức độ. Ông biết nương theo thời thế để sống và hiến mình cho sự nghiệp chung - một cách đánh giá phổ biến và chính xác” [2,128]. Vậy nhưng, tận sâu trong tâm hồn, ông lại là một con người hoàn toàn khác. Tiến sĩ N vì muốn bảo vệ lí lịch trong sáng của mình, muốn giữ cái địa vị mà mình đang có nên đã để mặc đứa em trai của mình bị chết trong thê thảm. N đã bị ám ảnh bởi cái chết của đứa em trai nên đã tìm ra chiến trường để tìm kiếm một cái chết nhưng đây là hành động mang tính chất vụ lợi. "Không một ai hồi đó hiểu được động cơ nhập ngũ của tôi. Tôi quyết định tìm kiếm một cái chết." (2,127) Tiến sĩ N càng dằn vặt lương tâm thì hắn càng muốn xung trận để được chết nhưng đó là hành động nhằm nguỵ trang cho những tham lam và dục vọng của ông. Nhưng “éo le” thay, mọi người lại nghĩ đó là hành động dũng cảm và con người này cần được gìn giữ. May cho N, hắn đã không phải ra trận mà còn được cử đi học ở nước ngoài. Dường như đó cũng là một hình phạt dành cho hắn, N đã phải sống từ giả dối này kéo theo giả dối khác, và giả dối đã được đẩy lên thành cực điểm trong mối quan hệ với vợ mình. Ông nhận thấy mình thực sự là một con người đê tiện, ngay cả khi ngủ với vợ, ông cũng phải sống giả dối để rồi khi đồng hồ điểm 4h sáng, ông lại bước vào căn phòng làm việc và tự đối diện với chính mình với sự dày vò day dứt khôn nguôi. Không thể chịu đựng được những cuộc “tra tấn tinh thần” khi ông đặt chân vào phòng làm việc, vào 4h sáng của một ngày, tiến sĩ N đã giết vợ và tự kết thúc cuộc đời, kết thúc cuộc sống dằng dặc cô độc và giả dối. Viết về cái xấu trong xã hội, Hồ Anh Thái là một trong những tác giả tiên phong của nền văn học hiện đại. Bắt đầu cầm bút từ khi là cậu sinh viên 17 tuổi và thành danh khá sớm khi chưa đầy 20 tuổi, Hồ Anh Thái trở thành một trong những hội viên Hội Nhà văn trẻ tuổi nhất vào thời điểm lúc bấy giờ. Từ những tác phẩm đầu tiên, Hồ Anh Thái đã viết về những chủ đề sắc bén về các vấn đề