Sáng Tạo Hình Tượng Văn Học Mới (Người Hào Kiệt, Người Anh Hùng Thời Loạn)

tao đàn, thi xã, thúc đẩy nhanh và đánh dấu mốc quan trọng bước đường phát triển của văn chương Nam Bộ, văn chương Việt Nam” [194, tr. 192 - 193].

Điều đặc biệt là Mạc Thiên Tích không chỉ có uy tín lớn với danh sĩ đương thời ở địa phương mà còn có tiếng vang nơi ngoại quốc, vậy nên Hà Tiên thập vịnh mới “vượt biển” sang tận Trung Hoa xa xôi, gợi đề tài, gợi hứng cho các văn nhân trong làng thơ của Trần Tử Hoài cầm bút họa lại thơ Mạc Thiên Tích, làm cho tập thơ đa dạng, phong phú hơn và phạm vi ảnh hưởng của Chiêu Anh các cũng trở nên rộng rãi hơn. Đây cũng là tao đàn duy nhất trong lịch sử hoạt động của các tao đàn thi xã ở Việt Nam có sự góp mặt của không chỉ nho sĩ Việt, mà còn có nho sĩ gốc Minh hương sống trên đất Việt và cả những người Hoa ngoài biên giới Việt Nam. Dư âm của tiếng thơ Chiêu Anh các đã rung động mạnh mẽ hồn thơ Nguyễn Cư Trinh, khiến ông, dù ở cách khá xa cả về thời gian lẫn không gian, không có điều kiện tham dự những sinh hoạt của thi xã, và trong bối cảnh việc quân bộn bề, vậy mà vẫn họa đủ mười bài chủ xướng của Mạc Thiên Tích, gửi thư bày tỏ lòng tri ngộ: “Người ấy chưa đến năm mươi tuổi, sao mà có lúc là gió, lại sao mà có lúc là mưa, đó không phải do vị sai khiến là gì? Mảng nghe hiền hầu nhún nhường về việc phong đất chia cỏ, giữ lời hẹn mà đốt tờ khoán, tha lầm lỗi, trọng lời ừ, vâng mệnh vua như ở trong gang tấc... thế rồi mà chưa tự mãn, tức không ngừng xem đọc, một điều hay đến thì vui như lên đài xuân” [38, tr. 327 - 328]. Lê Quý Đôn - người đứng phía bên kia “chiến tuyến”, đối lập về lập trường chính trị, vậy mà khi đọc các tác phẩm của Chiêu Anh các cũng phải thốt lên rằng “không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương được” [38, tr. 344]. Trịnh Hoài Đức - một trong Gia Định tam gia - thì “cố tìm các sách ấy (tức các sáng tác của Chiêu Anh các – T.T.T chú) mà không được gặp. Thường trằn trọc thâu đêm, trí mãi vẩn vơ lo nghĩ về việc sưu tầm sách mất”, “Tôi vẫn khâm phục đạo làm người của Mạc công, mà cũng thương hại ngài ở chỗ thời mạng chẳng gặp. Tôi vẫn mong nêu cao danh tiết ngài sừng sựng đứng vững muôn năm, tranh vinh cùng sông núi” [192, tr. 11], trùng san, khắc in tập Minh bột di ngư. Doãn Uẩn (1795 - 1848, người đất Sơn Nam cũ), trong thời gian làm Tuần phủ An Giang (bao gồm cả Hà Tiên) từng nhiều phen dẹp giặc Miên, trong một lần hành quân, “vừa rời khỏi yên ngựa, áo vẫn nồng khói đạn, lưng vẫn nặng trĩu gươm lệnh, chưa kịp nhắp chén rượu tẩy trần”, “đã hạ lệnh cho tướng sĩ mau dâng lên Hà Tiên thập cảnh đề của cố Mạc tướng công”, và rồi “Ta quên ăn

quên ngủ đọc liền một mạch. Mắt có nhìn thấy cảnh vật đâu, nhưng qua thơ Mạc tướng công, cảnh vật cứ như hiển hiện trước mắt mình”, đang “say ngây ngất” thì giặc đến, bèn cùng tướng sĩ xông pha tên đạn, dẹp tan giặc cỏ; trong tiệc rượu khao quân, dùng bài thơ Trống đêm ở Giang Thành của Mạc Thiên Tích làm “thức nhắm”, khiến “tướng sĩ ngồi im phăng phắc lắng nghe, quên cả rượu trước mắt và

„đồ nhắm‟ ở đâu đâu”1. Không chỉ có Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức sưu tầm văn

chương Mạc Thiên Tích và Chiêu Anh các mà còn có Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, và cả những giáo sĩ đến từ Tây phương, như Pierre Poivre,

A. Hamilton, thậm chí cả Thanh văn hiến thông khảo của Trung Hoa... cũng viết về Hà Tiên và Chiêu Anh các. Tất cả những điều đó đã nói lên sức ảnh hưởng rộng rãi của Mạc Thiên Tích nói riêng và Chiêu Anh các nói chung. Lý thú là, trong một vài điển hình yêu mến Chiêu Anh các kể trên có cả những nhà nho Đàng Ngoài. Điều đó cho thấy, rất có thể, đã có một sự thống nhất về phương diện văn học giữa vùng đất mới và phần còn lại của đất nước, ngay cả khi đất nước vẫn còn phân tranh (?).

4.1.3. Gia Định tam gia và trung tâm văn học Gia Định

Kể từ sau khi tập đoàn chúa Nguyễn chạy vào Gia Định, đặc biệt sau sự kiện Nguyễn Ánh giành quyền kiểm soát ở khu vực này, song song với quá trình hình thành trung tâm chính trị - quân sự của chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Định nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của cả vùng châu thổ sông Cửu Long, đồng thời cũng là trung tâm văn học thừa hưởng được nhiều nhất những thành tựu của hai trăm năm văn học viết Đàng Trong.

Văn học Đàng Trong nói chung, ngay từ những ngày đầu hình thành, đã hồ hởi một tinh thần nhập cuộc. Nhưng nếu như Tư Dung vãn của Đào Duy Từ trong khi bày tỏ quan niệm về lẽ “xuất xử, hành tàng” của kẻ sĩ theo tinh thần chính thống Nho gia cũng đồng thời nêu quan điểm về “xuất thế” để giữ mình trong sạch và tránh phiền lụy thì sáng tác của Gia Định tam gia nói riêng và tất cả các danh sĩ Gia Định nói chung, trước sau luôn trong một tâm thế hăm hở nhập cuộc, thiết tha hành động như thế. Họ ngợi ca “thành vàng Gia Định”, biết ơn “vua thánh” bởi cơ nghiệp đó và nguyện “dốc lòng đem thân giúp nước”, “đem hết lòng son báo thánh hoàng” (Ngô Nhơn Tịnh, Nhâm Tuất niên mạnh đông sứ hành do Quảng Đông thủy trình vãng Quảng Tây, họa Trịnh Cấn Trai thứ Lạp Ông tam thập vận - XXIX) [138, tr.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

1 Doãn Uẩn, “Tuy Tĩnh tử tạp ngôn”; dẫn theo: 250 Tao đàn Chiêu Anh các (1736 – 1986), Sđd, tr. 78.

68]. Ngay cả Ngô Nhơn Tịnh, dù từng có lúc coi việc “thu tay trong tay áo giữ mình thảnh thơi” [2, tr. 92] như một lối sống tốt nhất, cũng vẫn luôn tâm niệm rằng “niềm quân thần vẫn trọng”. Lý tưởng giúp nước lo đời ấy của Nho giáo đã được các trí thức Gia Định nhất hóa với việc phục vụ cho chính quyền Nguyễn Ánh, bởi theo họ sự nghiệp mở mang và xây dựng đất nước của nhà Nguyễn từ trước tới nay là do ý trời đất trao gửi, còn lực lượng Tây Sơn chỉ là kẻ “loạn thần” (Đề Lễ công từ - Lâm Tấn). Ngay như nhà nho Võ Trường Toản, từ chối chốn quan trường nhưng luôn ca ngợi các trung thần đã “xả sinh thủ nghĩa” và tích cực ủng hộ tinh thần hành đạo. Trên tinh thần đó, nhiều bài thơ, văn tế được viết ra để tưởng nhớ, tiếc thương sự hy sinh của quân sĩ nhà Nguyễn trong những trận chiến với Tây Sơn (Văn tế tướng sĩ trận vong - Nguyễn Văn Thành), hay ca ngợi sự tuẫn tiết vì trung nghĩa của các bậc công thần nhà Nguyễn (Khóc Võ Tánh - Công chúa Ngọc Du, Văn tế phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu - Đặng Đức Siêu, Vô đề, Võ hậu quân hỏa - Trịnh Hoài Đức, Ngô Lễ bộ tửu - Lê Quang Định...). Điều này hoàn toàn trái ngược với sắc thái ảm đạm trong thơ văn của đám bầy tôi “vong mệnh” và một số nhà nho Bắc Hà lúc ấy, cũng chống Tây Sơn nhưng đang bơ vơ nuối tiếc Lê triều (Bắc sở tự tình phú - Lê Quýnh, Tự thuật - Trần Danh Án, Giang đình hữu cảm - Nguyễn Du...); hay cái nét hoài nghi chán nản trong thơ văn của một số nhà nho Bắc Hà cộng tác với Tây Sơn, nhưng vì đã chứng kiến qua nhiều lần thay bậc đổi ngôi nên luôn dự cảm về một tương lai không sáng sủa của triều đại Tây Sơn kể từ sau khi Quang Trung chẳng may “nửa đường đứt gánh” (Thu phụng quốc tang cảm thuật - Phan Huy Ích, Thứ minh huynh Phan hầu chỉ tác - Đoàn Nguyễn Tuấn, Đăng Hoàng Hạc lâu phú - Ngô Thì Nhậm...). Vì vậy, có thể nói rằng, trong các tác phẩm của Gia Định thời kỳ này có cái “tâm trạng lạc quan và thái độ nhập cuộc của tầng lớp trí thức ý thức được vai trò xã hội của mình và sẵn sàng chờ ngày được đại dụng” [138, tr. 67].

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả - Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim - 16

Là các văn thần của triều đình, hơn nữa là những người đóng góp nhiều công sức thiết thực cho công cuộc xây dựng xã hội của triều Nguyễn, Gia Định tam gia luôn tâm niệm về trung quân, hành đạo và hướng tới cuộc sống của nhân dân. Hơi thở của cuộc sống mới tràn đầy sinh sắc trong tác phẩm của các ông. Tiếp nối mạch văn của những thế hệ đi mở cõi (được bắt đầu từ sĩ phu Bắc Hà như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Hào đến chinh phục đất mới), có sự hòa đồng tâm hồn, trí tuệ với thổ

ngơi, thiên nhiên, con người nơi đất mới, rồi từ huyết quản mình đã viết ra dòng văn Việt mang sắc thái phương Nam, Chiêu Anh các đã khiến cho mạch văn ấy được mở rộng hơn và đến lượt mình, Gia Định tam gia lại phát triển lên một bước mới. Nếu như trong Hà Tiên thập vịnh của Chiêu Anh các, yếu tố thiên nhiên còn lấn át hình ảnh con người, thì các bài thơ trong Cấn Trai thi tập, Hoa Nguyên thi thảo, Thập Anh đường thi tập, bóng dáng của con người đã hiện ra như một hình tượng nghệ thuật chủ đạo. Gia Định tam thập cảnh, phân Bội Văn Vận Phủ vận (Ba mươi cảnh Gia Định chia làm theo vần trong sách Bội Văn Vận Phủ) của Trịnh Hoài Đức với Lộc Động tiều ca, Ngư Tân sơn thị, Tiên phố giang thôn, Trấn Định xuân canh... đã hướng đến con người và cuộc sống một cách có ý thức, và khó có thể phủ nhận rằng sự gắn bó ấy sâu sắc hơn so với các sáng tác của Chiêu Anh các.

Trên phương diện nghệ thuật, tâm lý hành động nhuốm đậm màu sắc thực tiễn ấy cũng chi phối phong cách sáng tạo của các tác giả văn học Hán Nôm ở địa phương mà ánh phản của nó chính là cái phong cách cứng cỏi mà phóng khoáng trong truyền thống nghệ thuật của bộ phận văn học này. Trịnh Hoài Đức viết thơ thương tiếc cho sự hi sinh vì nghĩa của Võ Tánh và Ngô Tòng Châu nhưng ông không coi việc đó là “lấy thơ mà kêu khóc”, mà là “nhân khóc các ông nên lấy thơ ghi lại tiết lớn của các danh thần như thế thôi” [2, tr. 95]. Về sau này, viết lời tựa cho tập Minh Bột di ngư của Mạc Thiên Tích, ông nói rằng việc in sách “không phải vì muốn thỏa mãn bịnh mê thi họa của kẻ viết mấy hàng này” mà nhằm mục đích “khiến đoàn hậu tấn còn nhớ tới ngài luôn” [192, tr. 12].

Tuy là vùng đất “mở”, có thể sẵn sàng tiếp nhận những yếu tố văn hóa có nguồn gốc khác nhau nhưng về cơ bản, Gia Định vẫn xây dựng cho mình một “vốn liếng” văn hóa chủ đạo trên cơ sở tiếp nhận Nho giáo như một ý thức hệ chính thống. Bên cạnh đó, sự tiếp cận với một bộ phận trí thức Thuận Quảng (như những quan lại, tướng lĩnh, quân sĩ người Thuận Quảng theo chúa Nguyễn Phước Thuần vào Nam, các nhà nho miền Trung di cư để tránh chiến tranh, “Đặng gia sử phái” từ Bình Thuận vào Nam mở trường học...) đã tạo điều kiện thuận lợi cho các trí thức - nhà nho miền Nam “trưởng thành trong một khuôn mẫu truyền thống” [138, tr. 59]. Cần nhấn mạnh rằng đội ngũ trí thức - nhà nho cũng đồng thời là lực lượng sáng tác chủ đạo của văn học phương Nam thời kỳ này, nên cái việc cùng hướng về “một khuôn mẫu truyền thống” này sẽ tạo ra không ít thuận lợi để đồng quy vào với Phú

Xuân rồi trên cơ sở đó và sau này, vào với Thăng Long. Mặt khác, sự phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh cuối thế kỷ XVIII (cuộc chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh) khiến văn học Hán Nôm ở Gia Định nhìn chung vẫn chưa kế thừa được thành tựu của văn học viết toàn dân tộc, vì cho tới năm 1802, các tác giả văn học Hán Nôm ở địa phương mới chỉ được tiếp xúc trực tiếp chủ yếu với các tác phẩm văn học viết ở Đàng Trong và phần nào đó các tác phẩm văn học viết Trung Quốc từ Hoa Nam đưa đến. Đó cũng là điều kiện cho sự manh nha một kiểu thức “hội tụ” đặc biệt trong con đường phát triển của văn học Hán Nôm ở địa phương. Điển hình như trường hợp Trịnh Hoài Đức, từng đọc nhiều tác phẩm và chịu ảnh hưởng của Mạc Thiên Tích - Chiêu Anh các ở Hà Tiên; lại được học tập kinh nghiệm sáng tác nơi Đặng Đức Thuật từ Bình Thuận vào; rồi sau đó có dịp xướng họa với Đặng Trần Thường từ Đàng Ngoài vào; và cuối cùng là sáng tác ba mươi bài Gia Định tam thập cảnh theo quy định về vần trong Bội văn vận phủ của Trung Hoa. Trong ý nghĩa tích cực của nó, có thể thừa nhận kiểu thức hội tụ này đã góp phần giúp văn học Hán Nôm ở Gia Định khắc phục được một phần những hạn chế do điều kiện lịch sử đem lại để đảm nhiệm chức năng của một trung tâm.

Một dấu ấn đặc biệt nơi nhiều thế hệ tác giả văn học Hán Nôm ở Gia Định cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là phong thái “tài hoa, phong vận” bởi khả năng hiểu biết và hoạt động trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Dường như các nhà nho Gia Định giai đoạn này không chỉ giới hạn hiểu biết và hoạt động nghệ thuật của mình trong phạm vi sáng tác văn chương. Trong nỗi nhớ nhung của Ngô Nhơn Tịnh, Trịnh Hoài Đức có lần hiện ra với thái độ của một người đánh đàn say mê tiếng nhạc: “Minh cầm khanh thức thú/ Giáo ngã mạn lao thanh” (Vặn phím so dây anh thấy thú/ Bảo tôi chớ sợ tiếng ồn ào) (Ức hữu đắc cầm kỳ thi họa tứ vịnh - Cầm); hay với ý tứ chân thành qua bức tranh vẽ cây mai trước sân tặng bạn: “Khứ niên khanh họa tặng/ Chúc ngã chiếm xuân khôi” (Còn nhớ năm nào anh vẽ tặng/ Chúc tôi cũng chiếm bảng đầu xuân) (Ức hữu đắc cầm kỳ thi họa tứ vịnh - Họa). Tương tự, trong bài thơ tiếc thương của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định từng hiện ra như một họa sĩ có tài: “Ngự bình đồ họa ức Vương Duy” (Bùi ngùi tranh vẽ nhớ Vương Duy) (Khốc Hộ bộ Thượng thư Mẫn Chính hầu Lê Quang Định). Cũng có thể đọc thấy điều đó trong những bài thơ Đối cầm (Trước đàn) của Ngô Nhơn Tịnh, Vị đề Tương Âm Lục Tri huyện mai cúc phiến diện (Đề trên lá quạt mặt mai mặt cúc cho

ông họ Lục, Tri huyện Tương Âm), Đề Hán Dương Tri phủ Kỷ Hương “Tùng hạ ngư ông” đồ (Đề bức tranh “Ngư ông dưới cây tùng” của ông Kỷ Hương, Tri phủ Hán Dương) của Trịnh Hoài Đức, Đề “Mỹ nhân dao lỗ” đồ (Đề bức tranh “Mỹ nhân múa khiên”), Tiêu Tương chu hành tạp vịnh tứ thủ - Kỳ nhị: Triêu Họa hứng (Bốn bài tạp vịnh khi đi thuyền qua Tiêu Tương – Bài II: Buổi sáng vẽ, cảm hứng) của Lê Quang Định... Trong nguyên chú bài Ngô hạ nhị mỹ nhân đồ (1802), Trịnh Hoài Đức từng ghi lại rằng các sĩ phu Trung Hoa đua nhau đón đường xin thơ vịnh tranh đề quạt hay bức vẽ, câu đối... của các nhà thơ - nghệ sĩ Đồng Nai. Mấy chục năm sau (1845), Trương Hảo Hiệp, trong bài nguyên chú Đồ trung thư sự cũng ghi rằng dọc đường những nơi sứ bộ đi qua, có nhiều quan lại học trò người Trung Quốc đón đường xin thơ và tranh, không ngày nào vắng [138, tr. 76]. Qua đó cho thấy một nét độc đáo trong phong cách hoạt động nghệ thuật – sáng tạo và thưởng thức của văn chương phương Nam.

Gia Định tam gia là tên gọi người đời dành để tôn xưng ba nhà thơ Trịnh Hoài Đức - Ngô Nhơn Tịnh - Lê Quang Định. Họ được chọn làm đại diện cho văn chương Gia Định cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX không chỉ bởi họ viết nhiều về Gia Định mà quan trọng là bởi thơ văn của họ đã quy tụ, lưu giữ được toàn bộ sinh khí, thần sắc của đất và người Gia Định thuở ấy; bởi những sáng tác của họ không chỉ nối tiếp dòng chảy văn chương đã được các nhân sĩ trước đó khơi nguồn mà còn phát triển theo một khuynh hướng mới, mang phong cách riêng, đóng góp lớn lao cho văn học phương Nam trong tiến trình tạo dựng một truyền thống địa phương. Trịnh Hoài Đức được tôn xưng là “nhà văn hóa lớn nhất miền Nam” [41, tr. 5], “vừa là người mở đầu vừa là người xuất sắc nhất” cho văn học Hán Nôm Gia Định - Đồng Nai [41, tr. 67]. Lê Quang Định không chỉ giỏi thơ văn, mà còn nổi tiếng có tài vẽ đẹp, viết chữ đẹp. Ngô Nhơn Tịnh được Nguyễn Du ví như Đường Tống bát đại gia: “Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc” (Văn chương ông hay như của tám nhà văn lớn thời Đường Tống làm đẹp cho cả hai nước) [41, tr. 370 - 371].

Cần phải nhấn mạnh lại một lần nữa rằng, phần đông danh sĩ Gia Định - Đồng Nai nói chung, đều là những danh thần thời thịnh Nguyễn. Không chỉ sự nghiệp kinh bang tế thế mà cả sự nghiệp văn chương của họ, cũng hầu hết được định hình sau thời gian 1802. Tuy nhiên, hầu hết trong số họ đều được sinh ra, lớn

lên, học tập, trưởng thành và hình thành thế giới quan, nhân sinh quan từ thời kỳ Đàng Trong và hiển nhiên, đều đã tham gia tích cực vào quá trình tạo dựng một truyền thống địa phương trong phong cách sáng tác và thưởng thức văn học như chúng tôi đã trình bày ở trên. Gia Định tam gia cũng không là ngoại lệ. Cho đến nay, trừ trường hợp Trịnh Hoài Đức có thể xác định rõ những tác phẩm sáng tác vào thời

kỳ Đàng Trong1, còn những thi phẩm trong cả đời thơ Lê Quang Định và Ngô Nhơn

Tịnh đều không được ghi rõ về thời gian, vậy nên chỉ có thể căn cứ vào nội dung bài thơ mà đoán định những tác phẩm từ 1802 trở về trước. Tuy nhiên, điều này cơ bản không ảnh hưởng đến việc xác định phong cách cá nhân tác giả. Đáng chú ý là, tuy rằng mỗi người đều định hình cho mình một dấu ấn riêng, nhưng phải đến khi nhóm họp lại trong một danh xưng “Gia Định tam gia”, thì vai trò của họ đối với văn học vùng mới càng được khẳng định và trở nên nổi bật. Sáng tác của họ đặt cạnh nhau, “mỗi người một vẻ”, trở thành điểm tựa, soi sáng lẫn nhau. Trịnh Hoài Đức nổi bật bởi “vốn kinh lịch chất ngất” lại càng trở nên nổi bật khi đặt cạnh một Lê Quang Định “có tài của những bậc lãng tử vui thú yên hà” và một Ngô Nhơn Tịnh “thẳm sâu một tấm lòng ưu ái” [41, tr. 16]. Họ không chỉ là những nhà thơ - nhà văn lớn mà còn là “niềm tự hào” của cả một vùng đất, là “ba nhà thơ tài danh nhất” trong vòng năm mươi năm cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX ở Nam Bộ.

4.2. Sáng tạo hình tượng văn học mới (người hào kiệt, người anh hùng thời loạn)

Trong số không nhiều khuôn mặt văn hóa lớn thế kỷ XVII, Đàng Trong có vinh hạnh được xưng danh với tên tuổi Đào Duy Từ - người cùng với Phùng Khắc Khoan là hai “nhịp cầu” duy nhất bắc qua hai thế kỷ XVI - XVII. Họ là hai tác giả lớn nhập thế duy nhất của văn học thế kỷ XVI - XVII2, nhưng một người đã không còn ở trong quỹ đạo nhà nho chính thống (Đào Duy Từ). Sáng tác của Đào Duy Từ được coi là “dấu hiệu đổi thay quan trọng nhất” của văn chương Nho giáo ở hai thế kỷ XVI - XVII [186, tr. 146]. Chính ở trong các thi phẩm của ông, lần đầu tiên xuất hiện một hình ảnh hoàn toàn mới lạ với văn chương Việt: hình ảnh người hào kiệt, người anh hùng thời loạn. Cả Tư Dung vãn Ngọa Long cương vãn đều bộc lộ tâm


1 Thối thực truy biên tập (một phần trong Cấn Trai thi tập) gồm 127 bài thơ được Trịnh Hoài Đức sáng tác vào thời kỳ phiêu bạt (1782 - 1801), bộc lộ tình cảm của nhà thơ với quê hương Trấn Biên và nước Việt.

2 Những tên tuổi lớn khác như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ đều là nhà nho ẩn dật.

sự, khát vọng của một kẻ sĩ có chí trùm đời, không chấp nhận những thành đạt vặt vãnh.

Mở đầu Ngọa Long cương vãn là những câu thơ nói về vai trò của kẻ sĩ giữa thời loạn. Chỉ có kẻ sĩ là những người hiểu thời cuộc hơn cả và chỉ có sự thức thời mới giúp họ định được hướng đi cho mình:

“An, nguy, trị, loạn đạo hằng Biết thời sự ấy ở chưng sĩ hiền”

[131, tr. 36]

Trong sự dẫn chuyển nhịp nhàng, bài vãn gợi lên hình ảnh của Khổng Minh giữa thời cuộc “Ba chân phân vạc, bốn phương tranh hùng”. Sự nghiệp của Khổng Minh còn dở dang, sự khuông phò nhà Hán cũng không đến đích, nhưng dưới con mắt của Đào Duy Từ, không thể vì thế mà suy luận sự thành bại của người anh hùng, bởi vì tài năng của họ mới là giá trị cao nhất, chân chính nhất, nhất là khi tài năng ấy lại được dụng đúng chỗ:

“Hưng vong bỉ thái có thì

Chớ đem thành bại mà suy anh hùng”

[131, tr. 42]

Và rồi, ẩn ý của tác giả đã được bộc lộ ở những câu cuối cùng, rằng: nếu đất này mà có minh chúa biết cầu dụng người tài, ắt cũng có một Ngọa Long:

“Chốn này thiên hạ đời dùng Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời Chúa hay dùng đặng tôi tài,

Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên”

[131, tr. 42]

Tự ví mình như Ngọa Long là Đào Duy Từ đã mạnh dạn xác định cho mình vai trò của một bậc “đế sư”. Và sự thực là ông đã thành công, thành công vang dội, sau khi đã biết chấp nhận những tổn thất, những nỗi cực nhục, những cảnh bẽ bàng. Điều đáng nói là ông không chỉ để lại một sự nghiệp nhất thống xa thư đồ sộ, mà chỉ bằng hai bài vãn, ông đã để lại một gạch nối quan trọng trong văn chương thời đại. Cái đặc sắc trong các tác phẩm của ông là đã gợi mở một hình tượng nhân vật dám lên tiếng khẳng định thực tài của mình - điều rất vắng bóng trong thơ văn các thế kỷ trước đó nhưng lại cực kỳ phong phú vào các thế kỷ XVIII, XIX sau này,

Xem tất cả 166 trang.

Ngày đăng: 18/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí