Việt Nam là nước có nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển. Do đó, sự phát triển của nền kinh tế có tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành xây dựng. Trong giai đoạn 2002 – 2011, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân duy trì ở mức 7.11%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng Ngành công nghiệp – xây dựng bình quân ở mức 8.77%/năm. Chi tiết tốc độ tăng trưởng của GDP và ngành công nghiệp
– xây dựng giai đoạn 2002 – 2011 được thể hiện thông qua biểu đồ 1.1 sau:
Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và ngành công nghiệp – xây dựng giai đoạn 2002 – 2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm từ năm 2002 đến 2010 và 6 tháng năm 2011
Kinh tế tăng trưởng sẽ dẫn đến tới nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, khu đô thị, nhà ở, khu công nghiệp, cao ốc văn phòng tăng cao, nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cũng tăng lên. Tuy nhiên hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào chu kỳ trì trệ, một phần do ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế thế giới, phần còn lại do nguyên nhân nội tại của nền kinh tế trong nước. Khi nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái sẽ kéo theo nguồn vốn đầu tư, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng dân dụng giảm. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN ngành xây dựng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố tài chính tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 1
- Các yếu tố tài chính tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2
- Xây Dựng Mô Hình Nghiên Cứu Các Yếu Tố Tài Chính Tác Động Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Ngành Xây Dựng
- Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Và Quy Mô Của Doanh Nghiệp
- Kiểm Định Mô Hình 1 (Mô Hình Sử Dụng Biến Tỷ Lệ Nợ Tdta)
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
1.3.1.2Lạm phát
Khi lạm phát ở mức cao, giá cả leo thang, giá nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất như xi măng, sắt thép … sẽ tăng lên dẫn đến giá thành công trình tăng cao hơn mức dự kiến. Tỷ số lạm phát5năm 2008: 22.97%, năm 2009: 9%, năm 2010: 11.75% và 9 tháng năm 2011: 18%. Giá cả các loại mặt hàng đều gia tăng đã gây rất nhiều khó khăn cho các DN nói chung và ngành xây dựng nói riêng.
1.3.1.3Tỷ giá hối đoái
Trong lĩnh vực xây dựng, một số nguyên vật liệu phải nhập khẩu và chiếm một tỷ trọng tương đối cao. Ví dụ như tỷ lệ sắt thép chiếm khoảng 20% trong công trình xây dựng nhà ở và chiếm gần 40% trong công trình xây dựng công nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam mới sản xuất được 50% phôi thép, 50% quặng, 30% thép phế, còn lại đều phải nhập khẩu6. Do vậy hoạt động của DN phần nào chịu ảnh hưởng của biến động tỷ giá giữa VND với các loại ngoại tệ.
1.3.1.4Yếu tố luật pháp
Pháp luật và môi trường pháp luật có tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các DN. Các DN hoạt động trong ngành xây dựng chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đất đài và các pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như cơ chế quản lý hiện vẫn đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nên sự điều chỉnh có thể xảy ra. Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách về xây dựng cơ bản, đất đai, phát triển các khu đô thị, cơ sở hạ tầng … còn chồng chéo, thiếu tính ổn định và nhất quán, gây khó khăn cho các DN trong việc hoạch định chiến lược và chính sách kinh doanh.
5 Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2008, 2009, 2010 và 9 tháng năm 2011
6 Thép và xi măng tăng giá: Sức ép lớn trong ngành xây dựng [http:inconco6.com/index.php? option=com_content&view=article&id=62 truy cập ngày 20/10/2011]
1.3.2 Nhóm yếu tố chủ quan
1.3.2.1Cơ cơ vốn
Lý thuyết Modigliani & Miller (1958) giả định rằng khi các DN hoạt động trong một môi trường không có thuế, không có chi phí giao dịch, không có chi phí phá sản và không có bất cân xứng thông tin thì cơ cấu vốn không có ảnh hưởng gì đến giá trị DN hay nói cách khác DN không thể tăng giá trị của mình bằng cách thay đổi cơ cấu vốn. Rò ràng lý thuyết này không thể áp dụng được vào thực tế vì môi trường hoạt động kinh doanh của bất kỳ DN ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng tồn tại thông tin bất cân xứng, chi phí giao dịch và thuế thu nhập.
Lý thuyết Modigliani & Miller (1963) trong trường hợp có thuế thu nhập DN, cơ cấu vốn có liên quan đến giá trị của DN. Ưu điểm của việc sử dụng nợ là có thể tiết kiệm được thuế bởi vì chi phí nợ là chi phí hợp lý được khấu trừ khỏi phần lợi nhuận trước thuế. Trong khi đó chi phí vốn CSH không có được ưu điểm này, vì cổ tức là yếu tố chi phí sau thuế. Chính vì vậy mà giá trị DN được tăng lên là nhờ lợi ích từ lá chắn thuế.
Theo lý thuyết cơ cấu vốn tối ưu, khi một DN bắt đầu vay nợ, DN có lợi thế về thuế. Chi phí nợ thấp kết hợp với lợi thế về thuế sẽ làm cho chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) giảm khi nợ tăng. Tuy nhiên, khi tỷ lệ giữa nợ và vốn CSH tăng, buộc các chủ sở hữu phải tăng lợi tức yêu cầu của cổ đông (nghĩa là chi phí vốn CSH tăng). Đồng thời, ở mức tỷ lệ nợ và vốn CSH cao, chi phí nợ cũng tăng bởi khả năng DN không trả được nợ là cao hơn (nguy cơ phá sản cao hơn). Vì vậy, ở mức tỷ lệ nợ và vốn CSH cao hơn, WACC sẽ tăng. Do đó, lý thuyết cơ cấu vốn tối ưu cho rằng, cơ cấu vốn có tác động đến WACC và giá trị công ty hay nói khác đi có một tỷ lệ nợ tối ưu, ở đó WACC của DN là nhỏ nhất và giá trị của DN lớn nhất.
Như vậy, theo lý thuyết Modigliani & Miller và lý thuyết cơ cấu vốn tối ưu chúng ta có thể thấy được việc lựa chọn và sử dụng vốn như thế nào sẽ có tác động
đến HQKD của DN. Hay nói một cách khác là tồn tại mối quan hệ giữa cơ cấu vốn và HQKD của DN. Tỷ lệ nợ trên tổng vốn của ngành xây dựng được so sánh với các ngành khác tại Việt Nam thông qua biểu đồ 1.2 sau:
Biểu đồ 1.2: So sánh tỷ lệ nợ của ngành xây dựng và một số nhóm ngành khác tại Việt Nam
Nguồn: Công ty chứng khoán phố Wall
Biểu đồ này cho thấy ở Việt Nam, ngành xây dựng là ngành có tỷ lệ nợ cao nhất, bình quân ở mức 67%. Do đó, đối với các DN trong ngành xây dựng thì mối quan hệ giữa cơ cấu vốn và HQKD càng trở nên chặt chẽ, rò ràng hơn.
1.3.2.2Công nghệ, máy móc thiết bị
Lợi nhuận của DN là phần chênh lệch giữa Doanh thu thuần và toàn bộ chi phí bỏ ra. Thông thường để tăng lợi nhuận, các DN tập trung vào vấn đề cắt giảm chi phí. Tuy nhiên, trong thực tế các biện pháp này rất khó thực hiện. Bởi lẽ, DN không thể cắt giảm chi phí mà vẫn giữ nguyên được chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, quan niệm cạnh tranh bằng giá cả gần đây đã được thừa nhận là không còn phù hợp và các DN đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề cạnh tranh bằng khác biệt hóa sản phẩm. Chính vì vậy để lợi nhuận không ngừng tăng lên đòi hỏi DN chẳng những
không cắt giảm chi phí mà còn phải tăng chi phí lên. Với nguyên vật liệu tốt hơn, lao động có tay nghề cao hơn, máy móc công nghệ hiện đại hơn, DN sẽ giảm đi được lượng hao phí nguyên vật liệu/năng lượng/thiết bị trên từng sản phẩm và đây là điều kiện để có những sản phẩm với số lượng, chất lượng cao hơn, giá thành hạ. Như vậy một trong những biện pháp để tăng HQKD là không ngừng đầu tư vào công nghệ, máy móc thiết bị, nguồn nhân lực, phương pháp tổ chức quản lý … thì mới giảm được chi phí, nâng cao năng lực sản xuất, từ đó tăng chất lượng sản phẩm và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình7.
1.3.2.3Quy mô của Doanh nghiệp
Quy mô của DN có thể được hiểu là quy mô nguồn vốn, quy mô tài sản, quy mô mạng lưới tiêu thụ … Mô hình lý thuyết Lợi thế kinh tế theo quy mô hay còn gọi là lợi nhuận tăng dần theo quy mô được thể hiện khi chi phí bình quân trên một sản phẩm sản xuất ra sẽ giảm dần theo mức tăng của sản lượng sản phẩm. Lợi thế kinh tế theo quy mô có được bởi các lý do sau:
Giảm thiểu chi phí cố định: chi phí cố định là các chi phí máy móc thiết bị và một số các yếu tố đầu vào để duy trì hoạt động của DN. Chi phí cố định phụ thuộc vào việc DN có sản xuất hay không, chi phí cố định không thay đổi theo mức sản lượng, nó bắt đầu từ những mức sản lượng thấp và không tăng cùng với mức tăng của sản lượng. Vì vậy khi sản lượng tăng, DN sẽ đạt được tính kinh tế nhờ quy mô. Vì các chi phí cố định này có thể chia cho một số lượng nhiều hơn các đơn vị sản phẩm và như vậy nó làm giảm chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm.
Hiệu quả của tính chuyên môn hóa, khi quy mô sản xuất của DN tăng thì DN sẽ thuê thêm lao động. Mỗi người công nhân có thể tập trung vào một công việc cụ thể và giải quyết công việc đó hiệu quả hơn, từ đó góp phần làm giảm chi phí bình quân. Đồng thời do chuyên môn hóa nên việc đào tạo người lao động cũng tiết kiệm thời gian và chi phí đào tạo hơn.
7 Nguyễn Văn Tạo (2006), Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường [http://na.gov.vn/htx/vietnamese/default.asp?Newid=1218#LwpnuK0gqy8B, truy cập ngày 05/07/2011]
Bên cạnh đó các DN có quy mô lớn sẽ có điều kiện thuận lợi về uy tín, thương hiệu, thị phần, sức mạnh tài chính nên có khả năng tiếp cận với nguồn vốn tốt hơn (ví dụ như dễ dàng huy động hơn, mức vay cao hơn, lãi suất vay thấp hơn).
1.3.2.4Năng lực quản trị tài chính doanh nghiệp
Các hoạt động chủ yếu mà người phụ trách về tài chính của DN phải làm là dự báo và lên kế hoạch tài chính, phân tích các dự án để ra quyết định đầu tư dài hạn, phân tích các nguồn tài trợ sẵn có để quyết định phương án huy động vốn. Để làm tốt chức năng này, nhà quản trị tài chính cần những hiểu biết về thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều nhà quản trị tài chính thiếu kinh nghiệm, do đó các quyết định tài chính còn nhiều bất cập:
DN sử dụng hoàn toàn vốn CSH, do đó không khai thác được lợi thế của lá chắn thuế và đòn bẩy tài chính để nâng cao HQKD
DN không xác định được nguồn vốn vay, sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư tài sản dài hạn, do đó thiếu hụt nguồn vốn kinh doanh
DN áp dụng một chính sách tín dụng thương mại (bán chịu) khá thoải mái khiến cho dòng vốn của mình bị người mua chiếm dụng trong khi DN phải đi vay và trả lãi cho ngân hàng
DN đang trong thời kỳ tiền nhàn rỗi, không biết đầu tư vào đâu đành để tiền mặt tại quỹ hoặc gửi tiết kiệm ngân hàng dẫn đến lãng phí cơ hội kinh doanh v.v…
Có rất nhiều tình huống cho thấy nhiều nhà quản lý DN không coi trọng hoặc không biết việc quản trị tài sản có và tài sản nợ một cách hiệu quả để nâng cao HQKD.
1.4 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các DN ngành xây dựng từ năm 2007 – 20118
8 Thanh Phương (2009), Những thăng trầm của doanh nghiệp ngành xây dựng [http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/18514 truy cập ngày 20/07/2011] và
Ngô Hoàng Diễm Chi (2011), Phân tích ngành xây dựng [http://www.vndirect.com.vn truy cập ngày 20/07/2011]
Năm 2007, GDP của Việt Nam tăng gần 8.5% so với năm 2006, được Ngân hàng phát triển châu Á đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và cao nhất trong lịch sử 10 năm của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam năm 2007 có sự tăng trưởng toàn diện trong hầu hết các lĩnh vực và dẫn đầu là lĩnh vực xây dựng, bất động sản (ngành bất động sản là ngành tạo cầu của ngành xây dựng). Thị trường bất động sản phát triển khá nhanh và mạnh trong năm 2007, lượng BĐS được đầu tư xây dựng và giao dịch tăng lên khá nhiều, cung không đủ cầu. Một điều kiện thuận lợi không kém phần quan trọng, góp phần vào thành công của các DN trong ngành xây dựng là việc các DN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn. Sự phát triển rực rỡ của thị trường chứng khoán cùng với các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước, các DN dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay của các ngân hàng. Hội tụ những điều kiện thuận lợi trên, dẫn đến năm 2007 các DN trong ngành xây dựng làm không hết việc và luôn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 30%/năm, cao gấp gần ba lần so với mức tăng trưởng chung của khu vực công nghiệp và xây dựng cả nước (10.6%)9.
Giai đoạn từ năm 2007 sang năm 2008, khủng hoảng kinh tế và lạm phát tăng cao, gây tác động mạnh lên cả ba lĩnh vực có quan hệ mật thiết với nhau đó là: xây dựng, vật liệu xây dựng và kinh doanh bất động sản. Một trong những khó khăn lớn nhất của năm 2008 là giá cả trên thị trường vật liệu xây dựng tăng cao trong 6 tháng đầu năm: sắt thép tăng 90%, gạch tăng 300% … khiến chi phí vật liệu xây dựng chiếm đến 60% - 70% giá thành xây lắp. Song song đó, chi phí nhân công cũng tăng 30% - 55% và đặc biệt là lãi suất cho vay tăng mạnh (cao nhất là 21%/năm), trong khi đó vốn vay ngân hàng lại chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của các DN ngành xây dựng. Tất cả đều tăng khiến cho chi phí đầu vào vượt quá sức chịu đựng của phần lớn DN.
Thị trường chứng khoán sụt giảm, Nhà nước siết chặt tín dụng và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra khiến các chủ đầu tư càng cạn kiệt nguồn vốn triển khai dự án, kể cả những dự án đang thi công dở dang. Hàng loạt công
9 Nguồn: Vụ quản lý hoạt động xây dựng – Bộ xây dựng
trường nhà xưởng, công nghiệp, dự án căn hộ hoặc ngưng hẳn hoặc chỉ thi công cầm chừng. Các DN xây dựng có việc làm nhưng phải chấp nhận việc thanh toán bị chậm hoặc không biết khi nào được thanh toán bởi phía đối tác cũng không xoay xở được vốn do nguồn vốn tín dụng bị hạn chế. Chưa bao giờ các DN trong ngành xây dựng lại trải qua những thử thách ở mức độ mạnh và trên diện rộng như năm 2008. Phần lớn các DN quy mô nhỏ, yếu vốn và yếu công nghệ hầu như không có doanh thu, lợi nhuận và gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động kinh doanh của mình.
Từ năm 2009 cho đến nay, tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng đã có sự phục hồi đáng kể. Theo báo cáo của Vụ công nghiệp và xây dựng (Tổng cục thống kê): tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng năm 2009 # 9%, năm 2010 # 18.7% và 6 tháng đầu năm 2011 # 23.8%, là ngành có tốc độ tăng trưởng dẫn đầu trong khối sản xuất. Vào năm 2009, tại thành phố Hồ Chí Minh có hàng chục dự án như River Garden, Hoang Anh Riverview, Sunrise City, The Fleminhton … Bên cạnh đó, những dự án ODA cũng như nhiều dự án đầu tư hạ tầng từ vốn ngân sách nhà nước vẫn đang tiếp tục được thúc đẩy triển khai. Đây là cơ hội cho các DN chuyên thầu xây lắp hạ tầng. Ngoài ra, nhu cầu xây dựng và sửa chữa nhà tư nhân cũng sôi động trở lại. Một nguyên nhân quan trọng khác là do tình hình kinh tế, lạm phát trong nước đã được kiểm soát, giá các mặt hàng vật liệu xây dựng cơ bản đã giảm, lãi suất cho vay giảm nên DN dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng.
1.5 Đặc thù hoạt động kinh doanh của các DN ngành xây dựng
Qua phân tích thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh của các DN trong ngành xây dựng, có thể nhận thấy rằng hoạt động kinh doanh của các DN ngành xây dựng có một số đặc thù riêng10như sau:
Nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh số và lợi nhuận của DN trong ngành sẽ tăng cao. Ngược lại, tình
10 http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/dac-diem-chung-cua-nganh-xay-dung.494.530.htmltruy cập ngày 22/09/2011