Tổng Quan Lý Luận Về Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Thu Nhập Lãi Cận Biên Của Các


CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP LÃI CẬN BIÊN CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


2.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại


Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất tổng hợp, đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự có mặt của hệ thống ngân hàng thương mại trong hầu hết các mặc hoạt động của nền kinh tế, xã hội đã chứng minh rằng: ở đâu có một hệ thống ngân hàng thương mại phát triển thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế, xã hội và ngược lại. (PGS.TS Trần Huy Hoàng, 2011, giáo trình quản trị ngân hàng thương mại Đại học kinh tế TP.HCM).


Đạo luật Ngân hàng của Cộng hòa Pháp 1941 đã định nghĩa: Ngân hàng thương mại là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng các nguồn lực đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận.(Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010 của Quốc hội Việt Nam).


Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên của các Ngân hàng TMCP Việt Nam - 3

Qua các khái niệm về ngân hàng thương mại trên, từ đó ta có thể rút ra bản chất của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các điểm sau:


– Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế.


– Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng.


– Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính.


2.2. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

2.2.1. Khái niệm về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại


La Porta và các cộng sự (2002) cho rằng hiệu quả hoạt động là sự đo lường mức độ hiệu quả của các hoạt động kinh doanh trong một thời gian cụ thể, được thể hiện bởi mức độ sinh lời và lỗ trong suốt giai đoạn này. Cho nên có thể thấy rằng, hiệu quả hoạt động có thể phản ánh được hiệu quả của chính sách mà các nhà quản trị của ngân hàng sử dụng trong thời gian qua, cũng như phương thức mà ngân hàng đang hoạt động. Tương tự như các tổ chức, công ty khác; lợi nhuận được xem như là phương thức cơ bản giúp cho các ngân hàng có thể duy trì hoạt động, đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, cũng như mở rộng địa bàn hoạt động và thị phần trong tương lai nhằm mục đích khuếch đại giá trị của các cổ đông.


Thực tế có thể thấy rằng các ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu các nguồn lực như nguồn lao động (nhân viên), cơ sở vật chất (tài sản hữu hình), nguồn vốn từ các hoạt động huy động (tiền gửi khách hàng, đi vay các Tổ chức tín dụng khác), hoạt động cho vay và đầu tư. Do đó, khi phân tích mức độ hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của các ngân hàng thương mại,thìcần phảixem xét toàn diện các nguồn lực trên,để có thể đánh giá một cách tổng quan và chính xác nhất hiệu quả hoạt động của một ngân hàng thương mại.


Hơn thế nữa, các nghiên cứu thực nghiệm gần đây đưa ra một số phương pháp tiếp cận để phân tích hiệu quả hoạt động của một ngân hàng. Các cách tiếp cận theo hướng hiện đại chủ yếu bao gồm:



1985).


1987).


1998).

Phương pháp tiếp cận dưới góc độ tài sản (Sealey và Lindley, 1977).

Phương pháp tiếp cận theo khía cạnh chi phí sử dụng vốn(Hancock,


Phương pháp phân tích theo giá trị gia tăng (Berger và các cộng sự,


Phương pháp tiếp cận dưới khía cạnh thu nhâp(Leightner và Lovell,


2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt độngcủa ngân hàng


Tương tự như các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của tổ chức và doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng có thể được xem xét theo giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối. Trong đó, giá trị tuyệt đối được phản ánh bởi mức doanh thu thuần, thu nhập hoạt động, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế. Giá trị tương đối sẽ được phân tích dưới khía cạnh so sánh giá trị tuyệt đối với các chỉ tiêu khác của doanh nghiệp chẳng hạn như tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu… Tuy báo cáo tài chính của các ngân hàng sẽ có sự khác biệt so với các doanh nghiệp, nhưng về cơ bản ý nghĩa của các giá trị tuyệt đối và tương đối này đều như các doanh nghiệp. Cụ thể:

- Chỉ tiêu đo lường theo giá trị tuyệt đối:


Lợi nhuận của một ngân hàng được thể hiện trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Trong đó có một số chỉ tiêu đo lường lợi nhuận của một ngân hàng theo giá trị tuyệt đối chẳng hạn như:


Thu nhập lãi thuần được tính toán bởi chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí từ lãi (tương ứng với doanh nghiệp thì đây là tiêu chí doanh thu thuần). Chỉ tiêu này sẽ phản ánh thu nhậplãi thuầncủa ngân hàng từ các hoạt động huy động và cho vay của ngân hàng với khách hàng. Mức độ thu nhập lãi thuầncàng cao thì càng hàm ý rằng, ngân hàng đang được hưởng lợi nhiều từ hoạt động kinh doanh truyền thống (huy động và cho vay).

Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, nếu các ngân hàng chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh truyền thống (bao gồm huy động và cho vay) thì có thể sẽ giảm khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường. Do vậy, các ngân hàng sẽ gia tăng hoạt động theo hướng kinh doanh phi truyền thống, được thể hiện thông qua hoạt động dịch vụ, mua bán chứng khoán giao dịch và đầu tư, giao dịch vàng và ngoại hối… Cho nên, các khoản thu nhập từ các hoạt động này cũng được xem như là thu nhập phi lãi của ngân hàng, và đã được đưa vào phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong các nghiên cứu gần đây.

Thu nhập hoạt động trước chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tương ứng với thu nhập hoạt động của một doanh nghiệp. Trong đó thu nhập hoạt động này đạt được từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm các khoản thu lãi thuầnvà thu nhập phi lãi.

Lợi nhuận sau thuế được xem như là lợi nhuận của ngân hàng,sau khi đã loại trừ đi các nghĩa vụ thanh toán mà ngân hàng phải đáp ứng,bao gồm chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong trường hợp ngân hàng không thực hiện chi trả cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông,thì lợi nhuận sau thuế này sẽ là lợi nhuận chưa phân phối mà ngân hàng có thể dùng cho các hoạt động trong tương lai.


- Chỉ tiêu đo lường theo giá trị tương đối:


Tương ứng với các chỉ tiêu đo lường theo giá trị tuyệt đối, chỉ tiêu đo lường theo giá trị tương đối sẽ bao gồm, thu nhập lãi cận biên (tỷ lệ thu nhập lãi thuần trên tổng tài sản), thu nhập phi lãi (tỷ lệ thu nhập phi lãi trên thu nhập hoạt động),ROA (tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản), ROE (tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu).


Thu nhập lãi cận biên(NIM) được tính theo công thức:



NIM chính là chỉ số phản ánh hiệu quả của hoạt động cho vay và huy động, đo lường được chính sách thiết lập giá (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) cũng như khả năng huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư rồi cho vay đến các đối tượng có nhu cầu vay vốn. Chỉ số này càng cao có thể hàm ý: (1) chênh lệch lãi suất cho vay và huy động càng lớn, (2) thu nhập lãi thuần càng cao.


Thu nhập phi lãi(NONINT) được tính theo công thức:



NONINT chính là chỉ số phản ánh hiệu quả của hoạt động kinh doanh phi truyền thống, đo lường được khả năng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ số này càng cao có thể hàm ý: (1) Ngân hàng đang đa dạng hóa thu nhập, (2) thu nhập phi lãi càng cao.


Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) được tính theo công thức:



ROE chính là chỉ số phản ánh hiệu quả của vốnchủ sở hữu, đo lường hiệu quả đầu tư của vốn chủsở hữu, phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuậntừ một đồng vốn mà nhà đầu tư đầu tư vào ngânhàng, cho nên luôn nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà đầu tư.


Lợi nhuận trên tổng tài sản ROA là chỉ số đo lường khả năng các NHTM quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. ROA được tính theo công thức:



Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận từ việc sử dụng hiệu quả tài sản của ngân hàng thông qua cơ cấu danh mục tài sản của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao hàm ý rằng ngân hàng đang tạo ra nhiều lợi nhuận từ lượng tổng tài sản mà ngân hàng đang có.


Tuy nhiên, với mục đích từ đầu của bài nghiên cứu, tôi chỉ sử dụng tỷ lệ thu nhập lãi thuần trên tổng tài sản để phân tích thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng cũng như hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.


2.3. Tổng quan về thu nhập lãi cận biên


Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức lãi suất ròng của ngân hàng, và được tính bằng chênh lệch giữa thu nhập từ lãi mà ngân hàng nhận được và chi phí lãi mà ngân hàng phải trả, chia cho tổng tài sản có sinh lời của ngân hàng.


Trong vài năm gần đây, thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng. Cũng như các trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của nền kinh tế. Sự hiệu quả của các trung gian tài chính có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, các trung gian tài chính có thể ảnh hưởng đến đầu tư và tiết kiệm của người dân trong quốc gia đó (Demirguc – Kunt và Huizinga, 1999).


Bên cạnh đó, Demirguc – Kunt và Huizinga (1999) cũng cho rằng thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng có tương quan cùng chiều với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản, lạm phát, lãi suất ngắn hạn. Mặt khác, tỷ lệ tài sản không sinh lời trên tổng tài sản có ảnh hưởng ngược chiều đến thu nhập lãi cận biên.


Theo các nghiên cứu trước đây, thu nhập lãi cận biên được miêu tả qua nhiều cách khác nhau. Thu nhập lãi cận biên là yếu tố quan trọng trong hệ tài chính nếu thu nhập lãi cận biên quá lớn. Do vậy, thu nhập lãi cận biên được xem như là một trong các yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến việc mở rộng và phát triển của các trung gian tài chính. Do việc áp dụng một mức lãi suất huy động thấp sẽ có thể làm cho các người gửi tiền nản lòng, cũng như việc giới hạn hạn mức tín dụng cấp cho các đối tượng có nhu cầu vay vốn, do đó sẽ làm giảm các cơ hội đầu tư và tăng trưởng tiềm tàng của nền kinh tế (Barajas và các cộng sự, 1999). Robinson (2002) nhấn mạnh rằng,lãi suất cho vay mà các ngân hàng thương mại áp dụng cho các khoản vay, của các đối tượng có nhu cầu vay vốn có thể được phân tách làm hai thành phần. Thành phần đầu tiên là lãi suất mà ngân hàng phải trả cho các khoản huy động từ người gửi tiền,và một phần khác là phần bù rủi ro (risk premium). Thu nhập lãi cận biên có thể được xác định như là sự chênh lệch giữa thu nhập lãi từ các khoản cho vay và các khoản tương đương,với chi phí trả lãi cho các khoản tiền gửi và các khoản tương đương (Jayaraman và Sharma, 2003).


Hơn thế nữa, thu nhập lãi cận biên cũng phụ thuộc vào tình hình của nền kinh tế. Chẳng hạn như các yếu tố lạm phát, tăng trưởng kinh tế và lãi suất thị trường, gọi tắt là các yếu tố kinh tế vĩ mô.Jayaraman và Sharma (2003) ghi nhận rằng thu nhập lãi cận biên bị ảnh hưởng đáng kể bởi quy mô thị trường, chi phí hoạt động và chi phícố định, chi phí giao dịch và rủi ro của từng ngân hàng; mà các yếu tố kinh tế vĩ mô là các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố này. Hơn thế nữa, các tác giả cũng cho thấy rằng ngân hàng Trung ương có thể ảnh hưởng đến lợi tức của các tín phiếu kho bạc của một quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động và kết quả là ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên của ngân hàng. Ngoài ra, Neumark và Sharpe (1992) cũng cho rằng vấn đề tập trung của ngành ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng, thông qua việc làm gia tăng vấn đề bất cân xứng thông tin giữa người đi vay và người cho vay cũng như người gửi tiền và người nhận tiền gửi.


2.4. Lý thuyết xác định thu nhập lãi cận biên


Hai mô hình chính được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây dùng để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên: phương pháp tiếp cận đại lý (dealership) được thiết kế đầu tiên bởi Ho và Saunders (1981) và mô hình vi mô của ngành ngân hàng được đề xuất bởi Zaruck (1989). Mô hình đại lý xác định các ngân hàng như những đại lý động (dynamic dealer), có thể thiết lập lãi suất cho vay và lãi suất huy động để cân bằng vấn đề bất cân xứng thông tin giữa nhu cầu vay vốn và việc cấp tín dụng của ngân hàng. Mô hình đại lý động gần đây được phát triển bởi Maudos và Guervera (2004) và cung cấp các lý thuyết nền tảng trong chương này. Mặt khác, mô hình vi mô của ngành ngân hàng dựa vào mô hình của Monti (1972) là một mô hình tĩnh (static model) trong đó nhu cầu và sự cung cấp đều đồng thời rõ ràng ở cả hai khía cạnh huy động và cho vay. Mô hình này được mở rộng bởi Zarruck (1989), Allen (1988) và Wong (1997). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chủ yếu tập trung vào việc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/08/2022